CHUYỂN NHỊP RUNG NHĨ
Phân tích hồi cứu từ các thử nghiệm lâm sàng quan trọng của NOAC đã không cho thấy sự khác biệt đáng kể trong kết cục sau chuyển nhịp ở những BN điều trị bằng NOACs so với warfarin. Phân tích đa trung tâm các biến cố trong các thử nghiệm ngẫu nhiên cũng khẳng định những kết quả này,
CHUYỂN NHỊP RUNG NHĨ
Phân tích hồi cứu từ các thử nghiệm lâm sàng quan trọng của NOAC đã không cho thấy sự khác biệt đáng kể trong kết cục sau chuyển nhịp ở những BN điều trị bằng NOACs so với warfarin. Phân tích đa trung tâm các biến cố trong các thử nghiệm ngẫu nhiên cũng khẳng định những kết quả này, cho thấy không có sự khác biệt đáng kể trong đột quị/thuyên tắc hệ thống (tỉ số chênh, 0,73, 95% CI, 0,31-1,72) hoặc các biến cố xuất huyết nặng/không nặng có liên quan đến lâm sàng (tỉ số chênh, 1.41, 95% CI, 0.87-2.28) sau khi chuyển nhịp tim (1).
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên X-VeRTđánh giá hiệu quả của rivaroxaban so với warfarin trong chuyển nhịp tim ở những BN rung nhĩ không do van có kế hoạch chuyển nhịp chọn lọc. Thử nghiệm gồm hơn 1500 BN trải qua chuyển nhịp sớm (khoảng thời gian đích từ 1 đến 5 ngày sau khi làm ngẫu nhiên với siêu âm tim qua thực quản) hoặc trì hoãn (3 đến 8 tuần). Việc chuyển nhịp được thực hiện theo kiểu 2:1 với rivaroxaban hoặc warfarin. Kết cục hiệu quả chính (bao gồm đột quị, cơn TIA, thuyên tắc ngoại vi, NMCT, và tử vong do tim mạch) xuất hiện ở 0,51% BN dùng rivaroxaban so với 1.02% BN được điều trị bằng thuốc ức chế yếu tố Xa (RR, 0.50, 95% CI, 0.15- 1,73) với không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ xuất huyết (13).
Nghiên cứu ENSURE-AF (Edoxaban so với Enoxaparin-warfarin ở những BN rung nhĩ chuyển nhịp) thử nghiệm ngẫu nhiên 2199 bệnh nhân dùng edoxaban hoặc enoxaparin/warfarin trong thời gian chuyển nhịp có hay không có hướng dẫn của siêu âm tim qua thực quản. Đối với chuyển nhịp có hướng dẫn của siêu âm tim qua thực quản, phân chia ngẫu nhiên xảy ra trong thời gian<3 ngày từ lúc chuyển nhịp và nghiên cứu điều trị được tiếp tục trong ít nhất 28 ngày. Đối với chuyển nhịp không có hướng dẫn của siêu âm tim qua thực quản, điều trị nghiên cứu được bắt đầu ít nhất 21 ngày trước khi chuyển nhịp và kéo dài ít nhất 28 ngày. Kết cục hiệu quả chính (bao gồm đột quị, biến cố thuyên tắc hệ thống, NMCT, và tử vong do tim mạch) và kết cục an toàn chính (chảy máu nặng hoặc không nặng có liên quan đến lâm sàng) xảy ra ở tần số thống kê tương tự. Edoxaban có thể là một lựa chọn thay thế hiệu quả và an toàn cho enoxaparin / warfarin đối với những bệnh nhân có rung nhĩ không do bệnh lý van tim cần chuyển nhịp (14).
Dữ liệu quan sát từ thực hành lâm sàng cũng cho những kết quả tương tự. Dữ liệu từ một nghiên cứu cohort trên toàn nước Mỹ cho thấy không có sự khác biệt giữa kết cục ở những BN được điều trị với dabigatran so với warfarin. Trong 1230 BN được chuyển nhịp, tỷ lệ cộng dồn của đột quị, chảy máu hoặc tử vong ở thời điểm 30 tuần là 2.0% ở những người được điều trị với warfarin và 1.0% ở BN dùng dabigatran (HR điều chỉnh, 1.33, 95% CI, 0.33-5.42). Dữ liện từ một trung tâm tim mạch lớn (> 4600 BN chuyển nhịp) cũng không xác định bất kỳ sự khác biệt nào trong các biến cố huyết khối thuyên tắc hoặc xuất huyết sau chuyển nhịptrên BN dùng warfarin hay NOAC (15).
Các đề nghị hiện nay về vai trò của NOACs trong chuyển nhịp (5,6,10):
♦ Class I
• BN RN ≥ 48h hoặc không biết thời gian: KĐ kháng Vit K 3-4 tuần trước và sau chuyển nhịp (INR 2-3), bất chấp thang điểm CHA2DS2-VASc và biện pháp chuyển nhịp
• BN RN ≥ 48 giờ hoặc không biết thời gian, cần chuyển nhịp khẩn vì rối loạn huyết động: Kháng đông càng sớm càng tốt và tiếp tục 4 tuần sau chuyển nhịp, trừ khi có CCĐ
• BN RN <48 giờ và nguy cơ ĐQ rất cao: Heparin TM hay LWMH, NOACs nên dùng càng sớm càng tốt trước hoặc ngay sau chuyển nhịp, sau đó là kháng đông uống dài hạn
• Sau chuyển nhịp dù thời gian nào, dùng KĐ dài hạn hay không tùy thuộc vào nguy cơ thuyên tắc huyết khối của BN
♦ Class IIa
• BN RN ≥ 48 giờ hoặc không biết thời gian và không chấp nhận KĐ trước 3 tuần: Heparin, kháng vitamin K (ít nhất 5 ngày), NOACs (2-5 ngày), sau đó thực hiện ETO và chuyển nhịp nếu không có huyết khối trong nhĩ và tiểu nhĩ trái (B)
• BN RN ≥ 48 giờ hoặc không biết thời gian, có thể dùngNOACstrước 3 tuần và 4 tuần sau chuyển nhịp(C)
♦ Class IIb
• BN RN hoặc flutter nhĩ < 48 giờ và nguy cơ thuyên tắc huyết khối thấp, có thể quan tâm dùng heparin IV, LMWH, NOACs, hoặc không dùng kháng đông khi chuyển nhịp.
Hình 5.Chuyển nhịp ở bn rung nhĩ đang được điều trị NOACs, phụ thuộc vào thời gian loạn nhịp và kháng đông đã dùng trước đó
Theo timmachhoc.vn
PK Đức Tín
Tin tức liên quan
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389