Năm 2008, một phân tích gộp các thử nghiệm điều trị làm hạ huyết áp Blood Pressure Lowering Treatment Trialists' Collaboration (BPLTT) với 190,606 bệnh nhân THA một lần nữa cho thấy không có sự khác biệt về hiệu qủa trên các biến cố tim mạch giữa các giữa các nhóm thuốc chính (ƯCMC/chẹn thụ thể A II, chẹn Ca, BB, Lợi tiểu)
Năm 2008, một phân tích gộp các thử nghiệm điều trị làm hạ huyết áp Blood Pressure Lowering Treatment Trialists' Collaboration (BPLTT) với 190,606 bệnh nhân THA một lần nữa cho thấy không có sự khác biệt về hiệu qủa trên các biến cố tim mạch giữa các giữa các nhóm thuốc chính (ƯCMC/chẹn thụ thể A II, chẹn Ca, BB, Lợi tiểu), và trái với nghiên cứu của Khan 2006, không cho thấy có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi trên và dưới 65 tuổi giữa các nhóm thuốc (bảng 4) [3].
Bảng 4: Phân tích gộp Blood Pressure Lowering Treatment Trialists Collaboration (BPLTT) cho thấy không có sự khác biệt giữa chẹn beta so với ƯCMC hoặc chẹn Ca giữa 2 nhóm tuổi >65 tuổi và <65 tuổi
Hình 2: Phân tích gộp147 thử nghiệm của Law MR 2009. Hiệu qủa của BB và các thuốc khác
Hình 3: Hiệu qủa của 5 nhóm thuốc chính điều trị THA (chẹn beta, ƯCMC, chẹn AII, chẹn Ca và lợi tiểu) có tác dụng hạ áp và giảm các biến cố tim mạch và đột quỵ tương tự nhau.
Năm 2009 một phân tích gộp khác của Law MR & cs 147 thử nghiệm với 464,000 bệnh nhân THA đã ghi nhận không có sự khác biệt trong việc hạ áp và giảm các biến cố tim mạch và đột qụy giữa 5 nhóm thuốc chính là ƯCMC/chẹn AII, chẹn Ca, BB, lợi tiểu, ngoại trừ BB có ưu thế nổi trội hơn khi được cho sớm sau NMCT và chẹn Ca có phần nhỏ hiệu qủa hơn trong dự phòng đột qụy (hình 2 & 3)[4]. Chính vì vậy khuyến cáo ESC/ESH cập nhật năm 2009 vẫn khẳng định BB là một trong 5 nhóm thuốc hàng đầu trong chọn lựa điều trị THA chưa có biến chứng và không phân biệt lứa tuổi[19].
Theo khuyến cáo THA của Canadian Hypertension Education Program (CHEP) 2011, mặc dầu công nhận chẹn bêta là một trong năm thứ thuốc hàng đầu trong điều trị THA chưa có biến chứng như khuyến cáo ESC/ESH nhưng chỉ chỉ định ở bệnh nhân <60 tuổi (hình 4) [20], còn khuyến cáo NICE cập nhật 2011 về hướng điều trị thì không khác biệt năm 2006 nhưng khẳng định BB có thể xem xét được chỉ định đầu tiên ở bệnh nhân trẻ < 55 tuổi khi ƯCMC / chẹn A II không dung nạp, chống chỉ định, hoặc phụ nữ có thai, hoặc có chứng cứ tăng hoạt thần kinh cảm (hình 6) [21]. THA ở người lớn tuổi có vài cơ chế sinh bệnh lý đặc biệt, bao gồm gia tăng chất trung gian thụ thể hậu sinap (postsynaptic a-adrenoceptor-mediated) và co mạch do tăng dòng calci đi vào cũng như giảm sự hoạt động renin huyết tương [22]. Trong bảng đồng thuận của của Hội Tim Mạch Hoa Kỳ và Trường Môn Tim Học Hoa Kỳ (ACCF/AHA) 2011 về chẩn đoán và điều trị THA ở người lớn tuổi (>65t), không chọn BB cho THA ở người lớn tuổi khi chưa có biến chứng, mà chọn một trong 4 thuốc ƯCMC, chẹn thụ thể A II, chẹn Ca và lợi tiểu hoặc phối hợp đối với THA độ I, còn THA độ II chưa có biến chứng thì phối hợp amlodipine với chẹn thụ thể A II hoặc ƯCMC là ưu tiên và có thể phối hợp với lợi tiểu (hình 7) [22]. Còn THA tâm thu đơn độc cũng thường gặp ở người lớn chưa có biến chứng theo CHEP thì chọn một trong ba nhóm thuốc chẹn thụ thể A II, lợi tiểu, chẹn Ca DHP kéo dài, và có thể phối hợp 2 hoặc 3 thứ trong ba thuốc nhóm nầy khi không kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu, nếu vẫn không kiểm soát thì có thể phối hợp nhóm thuốc khác (như UCMC, chẹn alpha, tác nhân thần kinh trung ương hoạc chẹn Ca kéo dài Non DHP) (hình 5).
Hình 4. Tóm lược điều trị THA theo khuyến cáo CHEP 2011 đối với THA chưa có biến chứng.
Theo timmachhoc.vn
PK Đức Tín
Tin tức liên quan
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389