BÀN LUẬN
Nghiên cứu quan sát theo dõi dọc của chúng tôi trên 102 bệnh nhân thay toàn bộ khớp háng tại bệnh viện Chợ Rẫy cho thấy tỉ lệ DVT một tuần sau phẫu thuật thay khớp háng là 27%
BÀN LUẬN
Nghiên cứu quan sát theo dõi dọc của chúng tôi trên 102 bệnh nhân thay toàn bộ khớp háng tại bệnh viện Chợ Rẫy cho thấy tỉ lệ DVT một tuần sau phẫu thuật thay khớp háng là 27% và tỉ lệ DVT ba tuần sau phẫu thuật thay khớp háng là 39%. Tỉ lệ DVT mới xảy ra trong khoảng từ tuần 1 sau phẫu thuật đến hết tuần 3 không khác biệt so với tỉ lệ DVT trong tuần 1 sau phẫu thuật (34% so với 27%). Nghiên cứu này không tìm được sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa biến cố DVT nói chung và tuổi, giới tính, béo phì, hút thuốc lá, uống rượu và thuốc sử dụng sau phẫu thuật. Biến cố DVT trong khoảng thời gian từ tuần 1 đến tuần 3 sau phẫu thuật cao ở bệnh nhân nữ so với bệnh nhân nam (50% vs 18%, p=0.044). Tỉ lệ DVT trong nghiên cứu này thấp hơn so với các nghiên cứu khác trên các bệnh nhân thay khớp chi dưới ở thế giới,13 có thể là do tuổi trung bình của bệnh nhân phẫu thuật thay khớp háng ở Việt Nam thường thấp hơn so với các bệnh nhân trên thế giới và tương đối có ít yếu tố nguy cơ. Các bệnh nhân này có tuổi trung bình > 65 tuổi, số người thừa cân /béo phì rất thấp (8,8%), BMI Trung bình là 22.
Về dấu hiệu DVT sau lần khám thứ 2 chỉ có 1% là viêm chi dưới, nhưng sau lần khám thứ ba là 0%. Tỉ lệ bệnh nền trên những bệnh nhân này là thấp, đa số đều không có bệnh lý mạn tính. Mặc dù tỉ lệ DVT trong nghiên cứu này có thấp hơn tỉ lệ DVT được báo cáo trong các nghiên cứu trên thế giới nhưng kết quả này gần với kết quả của các tác giả Geerts WH và cs (2008) và các tác giả ở khu vực Châu Á và vẫn một tỉ lệ khá cao cần được quan tâm. Có thể cho rằng phẫu thuật thay khớp là yếu tố nguy cơ cao cho huyết khối tĩnh mạch. Điều đáng nói ở đây là tỉ lệ bệnh nhân phẫu thuật thay khớp toàn phần chiếm một tỉ lệ chỉ có 4% trong nghiên cứu này, hơn nữa tỉ lệ 39% là con số ước lượng non bởi vì siêu âm lần 2 chỉ chiếm có 47% trong số bệnh nhân cần được siêu âm lần 2. Nếu giả định tỉ lệ bị huyết khối tĩnh mạch sâu ở người không siêu âm lần 2 cũng tương tự như người được siêu âm lần 2 (34%) thì tỉ lệ tổng huyết khối tĩnh mạch sâu cho cả 2 lần siêu âm sẽ là 52% (53/102), nghĩa là cứ 2 bệnh nhân phẫu thuật thay khớp thì có thể có một bệnh nhân có DVT gợi ý nhu cầu điều trị dự phòng DVT ở các bệnh nhân được phẫu thuật thay khớp háng.
Mặc dù nghiên cứu có tìm mối liên quan của các yếu tố nguy cơ như tuổi cao, giới nữ, béo phì, hút thuốc lá nhưng do tỉ lệ bệnh nhân có yếu tố nguy cơ thấp và nghiên cứu được thực hiện trên mẫu nhỏ nên mặc dù bệnh nhân có yếu tố nguy cơ có khuynh hướng có biến cố DVT cao hơn bệnh nhân không có yếu tố nguy cơ nhưng sự liên quan này là không có ý nghĩa thống kê gợi ý nên điều trị dự phòng DVT vì bản thân phẫu thuật thay khớp đã là một nguy cơ cao. Kết quả của nghiên cứu cho thấy nguy cơ của DVT không chỉ tập trung trong tuần lễ đầu tiên sau phẫu thuật mà còn kéo dài ít nhất đến tuần thứ ba sau phẫu thuật.
KẾT LUẬN
Nguy cơ DVT ở bệnh nhân sau phẫu thuật thay khớp háng là quan trọng và có thể kéo dài trong khoảng thời gian ít nhất là 3 tuần. Vì vậy đặt ra nhu cầu điều trị dự phòng DVT cho bệnh nhân phẫu thuật thay khớp háng trong thời gian nằm viện và ngay cả sau khi xuất viện.
Tin tức liên quan
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389