ĐÁNH GIÁ BỆNH NHÂN CÓ CHẢY MÁU KHI DÙNG NOAC:
Việc điều trị thích hợp các biến cố chảy máu do dùng NOAC phụ thuộc vào phân tầng nguy cơ độ nặng của chảy máu, tình trạng kháng đông, bệnh nền chỉ định điều trị kháng đông.
I. Đánh giá ban đầu:
Đánh giá mức độ nghiêm trọng của chảy máu và mức độ tổn thương cầm máu.Khai thác kỹ bệnh sử và các thuốc đang sử dụng. Cần trả lời các câu hỏi qua khai thác bệnh sử:
- BN còn đang chảy máu hay không?
- BN đang dùng thuốc kháng đông nào?
- Liều cuối cùng BN dùng khi nào?
- BN có cố ý hay vô tình uống quá liều kháng đông.
- BN có tiền căn suy gan hay thận không?
- BN có dùng chung với các thuốc gây ảnh hưởng đến đông máu không?
- BN có bệnh đi kèm làm tăng nguy cơ chảy máu không?
- Nguy cơ thuyên tắc có nặng không khi phải ngưng thuốc NOAC (thang điểm CHA2DS2– VASc)?
Mức độ nặng của chảy máu và nơi chảy máu (hình 1).Chảy máu nặng hoặc nghiêm trọng là mất lượng lớn máu (ví dụ: xuất huyết tiêu hoá) cần phải truyền máu hoặc các dạng xuất huyết trong khoang kín (như xuất huyết nội sọ, hội chứng khoang). Chảy máu nặng cũng có thể bao gồm chảy máu đòi hỏi phải có sự điều trị can thiệp (ví dụ: phẫu thuật, điều trị nội soi). Chảy máu nhỏ, nhưng vẫn có thể có ý nghĩa lâm sàng, là chảy máu đòi hỏi phải có một đánh giá y tế hoặc ít hơn là có điều trị xâm lấn, như rong kinh nặng, bầm máu, hoặc chảy máu cam. Tất cả các loại chảy máu rất quan trọng đối với bệnh nhân.Tuy nhiên, chảy máu rất nhỏ thường sẽ không bị yêu cầu gián đoạn điều trị chống đông
Hình 1: Đánh giá mức độ chảy máu
II.Xét nghiệm đo lường hiệu quả kháng đông:
Đo lường hiệu quả kháng đông (KĐ) thường quy là không cần thiết, tuy nhiên định lượng tác dụng này rất cẩn thiết trong những tình huống cấp cứu như khi có biến cố thuyên tắc hoặc chảy máu nặng, cần phẫu thuật khẩn cấp hoặc trong những tình huống đặc biệt như bệnh nhân có suy gan, suy thận, có dùng thuốc gây tương tác hay nghi ngờ quá liều…
Không giống như VKAs, kiểm tra hoạt tính NOAC phụ thuộc nhiều vào thời điểm lấy mẫu máu.Hiệu quả tối đa (nồng độ đỉnh) đạt được 3 giờ sau uống và hiệu quả thấp (nồng độ đáy) khoảng 12 - 24 sau uống thuốc. Do đó, thời gian từ lúc uống đến lúc lấy máu cần ghi lại cẩn thận khi theo dõi hoạt tính chống đông.
Có thể định tính hoạt tính KĐ của Dabigatran bằng aPTT và của thuốc ức chế Xa (như Rivaroxaban) bằng PT (Prothrombin time) nhưng nó không nhạy cho việc đánh giá định lượng.Xét nghiệm định lượng cho chất ức chế thrombin trực tiếp (Direct thrombin Inhibitors-DTIs) và ức chế yếu tố Xa đã có nhưng lại không có thường qui ở tất cả các bệnh viện.Không sử dụng INR để đánh giá hiệu quả KĐ cho các BN điều trị NOACs (bảng sau, hình 2). Các XN khác cần làm là aPTT, fibrinogen, công thức máu, chức năng thận và điện giải đồ (có cả canxi).
Những mẫu thử hoạt tính KĐ ở BN điều trị NOACs khác nhau
Hình 2: Các xét nghiệm (XN) có sẵn để đánh giá hiệu quả kháng đông của NOAC. Hình màu xanh chứng tỏ XN có giá trị đánh giá trực tiếp hiệu quả kháng đông của các NOAC, tuy nhiên hiện chưa phổ biến trong thực hành.Màu vàng là đánh giá gián tiếp và tạm chấp nhận trong thực hành hiện nay. Màu đỏ là XN không có giá trị theo dõi (từ Hội nghị Tim mạch châu Âu 9/2015).
PK ĐỨC TÍN
Tin tức liên quan
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389