Ở nước ta bệnh gút (bệnh thống phong) đã trở nên rất phổ biến, đứng hàng thứ 4 trong 15 bệnh khớp nội trú thường gặp nhất. Bệnh gút gặp chủ yếu ở người trưởng thành, nhất là lứa tuổi từ sau 40. Bệnh gút có thể gây biến chứng, thậm chí gây tàn phế nếu không tích cực điều trị và kiêng khem đúng mực.
1. Nguyên nhân của bệnh gút
Bệnh gút xuất hiện là do sự tăng cao acid uric trong máu. Bởi vì, ở người mắc bệnh gút do có sự thay đổi khác thường của các phản ứng trong cơ thể dẫn đến chất acid uric được tạo ra nhiều hơn hoặc là sự lọc thải ra bằng đường tiểu không kịp gây ứ đọng acid uric. Khi acid uric tăng lên trong máu, chúng kết hợp lại và tạo nên những khối trong suốt gọi là tinh thể muối u-rat. Tinh thể u-rat lắng đọng trong màng hoạt dịch khớp gây viêm khớp, đau khớp, lâu dần gây biến chứng khớp.
Có nhiều nguy cơ tồn đọng muối u-rat nếu nồng độ acid uric cao trong cơ thể. Tuy nhiên, hội chứng acid uric tăng cao và bệnh gút là hai vấn đề cần phân biệt, mặc dù chúng có liên quan chặt chẽ với nhau. Acid uric là một chất thải được hình thành do sự phá hủy tự nhiên chất purin trong cơ thể. Những người có thói quen ăn nhiều chất đạm, hải sản hoặc các phủ tạng động vật hoặc uống nhiều bia, rượu không chỉ làm tăng hàm lượng purin mà còn là nguồn chuyển hóa dở dang tạo ra vô số các gốc tự do, di chuyển trong máu và sẵn sàng gắn vào bất kỳ gen nào có nguy cơ biến đổi (gọi là rối loạn chuyển hóa nhân purin).
Khớp đau thường hay gặp nhất trong bệnh gút là khớp ngón chân cái.
Mặt khác, bệnh gút thường gặp do người bệnh có tiền sử bệnh tiềm ẩn và các bệnh khác gồm béo phì, tiền sử gia đình, bệnh thận, huyết áp cao, hội chứng chuyển hóa hoặc sử dụng của một số thuốc. Đáng lo ngại nhất là acid uric còn có thể lắng đọng ở các cơ quan khác như thận, tổ chức dưới da gây nên sỏi thận và hình thành các hạt tophy.
Bệnh gút thường gặp ở nam giới nhiều hơn nữ giới, do các gen bị trục trặc thường có ở nam. Tuy nhiên, những phụ nữ có nam tính mạnh vẫn có nguy cơ mắc bệnh gút.
2. Triệu chứng của bệnh gút
Thể gút cấp tính thường có đau khớp dữ dội, rát bỏng là một triệu chứng đặc trưng, thường xuất hiện vào lúc nửa đêm về sáng, nhất là sau các bữa ăn có nhiều đạm, uống bia, rượu. Tại các khớp đau có hiện tượng viêm rõ rệt (sưng, nóng, đỏ, đau) và các khớp đau không đối xứng.
Các khớp đau thường hay gặp trong bệnh gút là khớp ngón chân, khớp cổ chân, khớp gối và đặc biệt là khớp ngón chân cái (ở nữ thường đau các khớp ngón tay).
Thể mạn tính của bệnh gút thường đau một số khớp xương nhưng không phải đau thường xuyên mà đau tái đi tái lại nhiều lần và mỗi lần lên cơn đau khớp đôi khi không điều trị gì cũng tự khỏi, chính vì lẽ đó, rất dễ chẩn đoán nhầm với bệnh thoái hóa khớp hoặc viêm khớp dạng thấp.
3. Biến chứng do bệnh gút gây ra
Bệnh gút đặc trưng bởi những đợt viêm khớp cấp tái phát, người bệnh thường xuyên bị đau đớn đột ngột giữa đêm ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống thường ngày, tổn hại đến sức khỏe. Khi người bị gút xuất hiện hạt tophi chính là các tinh thể của hợp chất natri urat monohydrat hoặc tích tụ bên trong hoặc xung quanh khớp và các bộ phận cơ thể khác (như thận…). Các hạt tophi biểu hiện trông giống như các khối u nhỏ, phồng, phát triển trên các khớp ngay bên dưới da gây sưng, đau, biến dạng khớp và làm cho lớp da bao quanh khớp bị căng hoặc đôi khi là gây lở loét da.
Một số trường hợp nghiêm trọng, hạt tophi có thể ăn mòn xương và phá hủy sụn, dẫn đến viêm mạn tính, gây đau đớn và suy nhược cơ thể. Theo thống kê, hạt tophi gây ảnh hưởng khoảng 12 – 35% người bệnh gút. Chính những hạt tophi tích tụ ở các khớp xương dẫn đến viêm, sưng tấy, nóng, đau nhức cho người bệnh. Đặc biệt, bệnh gút có thể gây biến chứng rất nguy hiểm làm hủy hoại khớp, đầu xương và nguy hiểm nhất là gây tàn phế rất khó khắc phục.
Ngoài ra, khi các hạt tophi bị loét vỡ, khiến vi khuẩn xâm nhập vào trong khớp gây viêm khớp nhiễm khuẩn, từ đó có thể gây nhiễm trùng huyết. Bên cạnh đó do muối u-rát lắng đọng ở thận làm tổn thương thận, gây sỏi thận, ứ mủ thận dẫn đến suy thận, tăng huyết áp...
4. Phòng biến chứng do bệnh gút
Người mắc bệnh gút cần ăn kiêng hoặc hạn chế ăn hải sản.
- Khi nghi ngờ mắc bệnh gút cần được khám bệnh càng sớm càng tốt để điều trị đúng, kịp thời, đồng thời được tư vấn nhằm hạn chế bệnh tái phát và biến chứng.
- Ngoài việc điều trị (dùng thuốc) đúng, nghiêm túc, không điều trị ngắt quãng, người mắc bệnh gút cần ăn kiêng hoặc hạn chế ăn các phủ tạng động vật (tim, gan, lòng, thận...), hải sản. Cần thực hiện chế độ ăn giảm đạm, giảm mỡ, giảm cân (nếu béo phì), ăn nhiều rau, trái cây và không nên để bị đói (vì acid uric trong máu tăng cao khi đói). Người bệnh cần kiêng rượu, bia, bởi vì, các loại đồ uống có cồn thường là nguyên nhân làm xuất hiện hoặc tái phát bệnh gút.
- Cần uống đủ lượng nước hàng ngày (1,5- 2,0 lít) để tăng cường đào thải lượng acid uric bằng đường nước tiểu nhằm hạn chế lắng đọng ở thận.
- Hàng ngày nên vận động cơ thể, có chế độ sinh hoạt điều độ, làm việc nhẹ nhàng, tránh mỏi mệt cả về tinh thần lẫn thể chất.
- Cần tránh lạnh, lao động quá mức, chấn thương, stress...
- Ngoài ra, bệnh nhân gút cần tránh dùng một số loại thuốc có thể làm tăng acid uric máu như các thuốc lợi tiểu, corticoid, aspirin.
Theo Suckhoedoisong
Pk Đức Tín
Tin tức liên quan
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389