Hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần: Từ chuẩn đoán đến điều trị phẫu thuật (P.1)
Ngày 15/07/2018 04:20 | Lượt xem: 904

Tóm tắt

Muc đích: phẫu thuật điều trị hở van hai lá bẩm sinh thường gặp nhiều khó khăn  do phẫu trường nhỏ và kỹ thuật ứng dụng hạn chế. Nghiên cứu này nhằm xác định kết quả dài hạn của phẫu thuật  hở van hai lá bẩm sinh theo phương pháp Carpentier tại Viện Tim TPHCM

Tóm tắt

Muc đích: phẫu thuật điều trị hở van hai lá bẩm sinh thường gặp nhiều khó khăn  do phẫu trường nhỏ và kỹ thuật ứng dụng hạn chế. Nghiên cứu này nhằm xác định kết quả dài hạn của phẫu thuật  hở van hai lá bẩm sinh theo phương pháp Carpentier tại Viện Tim TPHCM.

Phương pháp: nghiên cứu hồi cứu từ năm 1993 đến 2009, 77 bệnh nhân hở van hai lá bẩm sinh được phẫu thuật theo phương pháp sửa van hai lá của Carpentier.

Kết quả: Tuổi trung bình là 9,4 tuổi (6 tháng - 45 tuổi), trong đó nhóm tuổi dưới 6 tuổi chiếm 25 trường hợp (32,5%). Nam giới 40 (52%). Siêu âm tim qua thành ngực chỉ chẩn đoán chính xác nguyên nhân bẩm sinh trong 40% trường hợp.

Tạo hình van chiếm 75 trường hợp (97,4%), hai trường hợp phải thay van nhân tạo.Số kỹ thuật trung bình được thực hiện trên một bệnh nhân là 2,5 (ít nhất 1, nhiều nhất 5 kỹ thuật), 64 trường hợp (83%) có đặt vòng van nhân tạo. Biến chứng gần sau mổ thấp (suy tim nặng 3, rối loạn nhịp tim 10, suy thận cấp 1, nhiễm trùng huyết 1, viêm phổi 3). Tử vong phẫu thuật là 1.3% (1 trường hợp). So sánh trước và sau mổ sớm, có sự giảm có ý nghĩa độ hở van hai lá: trước mổ (100% đều hở van nặng) và sau mổ: không hở hoặc hở nhẹ 86%(66), hở  trung bình 14%(11) và hở nặng 0%, p< 0.001.

Thời gian theo dõi trung bình 88,4 ± 62 tháng. 3,8% số BN mất theo dõi. Ở thời điểm theo dõi sau cùng (ngắn nhất 6 tháng và dài nhất 16 năm) có 6 BN hở van nặng tái phát,4 hở van trung bình còn lại hở nhẹ hoặc không hở. 5 BN phải mổ lại vì hở van tái phát (từ 1 đến 29 tháng sau mổ).

Tỉ lệ còn sống thực tế sau 16 năm theo dõi là 96,1 ± 2,7%. Tỉ lệ thực tế BN không bị mổ lại sau 16 năm theo dõi là 88,5 ± 6,4%.

Kết luận: Chẩn đoán xác định hở van hai lá bẩm sinh chủ yếu dựa vào kết quả phân tích trong mổ. Tạo hình van  là chọn lựa ch? yếu đối với hở van hai lá bẩm sinh ở trẻ em. Kết quả điều trị phẫu thuật theo phương pháp Carpentier về dài hạn rất tốt.

***

Objective: surgical treatment for congenital mitral regurgitation especially in young children often encounter many difficulties because of small surgical field and limited techniques used. This study determines the long-term result of  the surgical treatment for  isolated congenital mitral regurgitation with Carpentier's techniques

Methods: A retrospective study  from Feb 1993 to Dec 2009,  77 patients with isolated congenital mitral regurgitation were operated with Carpentier's techniques at The Heart Instituteof HCM City, Viet Nam.

Results: Mean age was 9.4 ± 7.8 years (range from 0.7 to 45 years old), among them there were 25 patients (32.5%) under 6 year of ages. Female patients was 37 (48%). Diagnosis pre-op by echocardiography was exact only in 40% patients.

Valve repair  was performed sucessfully in 97.6% and only 2 cases had to change the native valve by prosthetic valve. The mean number of techniques per patients is 2,5 (min 1, max 5), Carpentier-Edwards ring was used in 64 patients (83%). Immediate postoperative complications were low (severe LCO 3.9%, arrhythmias 13%, severe infection 5.2% and re-operation 1.3%). 30-day mortality rate was only 1 patient (1.3%). The mean time of follow-up was 88.4 ± 62 months (6 - 192 months). During follow-up, 5 patients need to re-operation (1 - 29 months). Evaluation MR by echocardiography at the last follow-up  showed  6 patients has severe MR, 5 others has moderate MR and the rest has mild or no MR. Actuarial rate of freedom from re-operation at 16-year follow-up was  88.5 ± 6.4%. Late death was two patients. Actuarial rate of survival at 16 year was 96.1 ± 2.7%.

Conclusion: Isolated congenital MR is always complex and difficult to diagnose before operation. Mitral valve repair should be the primary choice to congenital MR. Mitral valve repair in children with Carpentier's techniques has  very good long-term results with low mortality and re-operation rate.

Mở đầu

Hở van hai lá có thể gặp ở bất kỳ lứa tuổi nào từ sơ sinh cho đến người lớn tuổi và có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Hở van hai lá có thể đơn thuần là một bệnh duy nhất hoặc kết hợp với các thương tổn van tim khác hoặc dị tật tim khác. Chẩn đoán có hở van hai lá nặng thì không quá khó với phương tiện hiện nay nhưng chẩn đoán đúng nguyên nhân gây hở van thì không đơn giản. Trên siêu âm tim, tuỳ theo nguyên nhân gây hở van  sẽ có các hình ảnh chẩn đoán khá đặc thù. Các dạng tổn thương của lá van, vòng van và bộ máy dưới van phối hợp hoặc không đi kèmvới các dị tật tim khác sẽ giúp chẩn đoán nguyên nhân.Tóm tắt có thể chia làm 5 nhóm nguyên nhân gây hở van hai lá như sau:

- Hở van hai lá do viêm nhiễm: hậu thấp, viêm nội tâm mạc...

- Hở van hai lá do thoái hoá: bệnh thoái hoá nhày, bệnh Barlow, hội chứng Marfan...

- Hở van hai lá bẩm sinh: đơn thuần hoặc phối hợp với dị tật khác

- Hở van hai lá do thiếu máu cơ tim: sau nhồi máu, ALCAPA...

- Hở van hai lá do nguyên nhân khác: chấn thương, u nhày...

Tại Việt Nam, hở van hai lá bẩm sinh thể đơn thuần thường được nghĩ tới ở trẻ nhũ nhi nhưng với trẻ lớn hơn hở van hai lá đơn thuần thường do nguyên nhân hậu thấp. Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ khảo sát những trường hợp hở van hai lá bẩm sinh đơn thuần ở mọi lứa tuổi được mổ.

Bệnh nhân và phương pháp nghiên cứu:

Nghiên cứu tiến hành theo kiểu hồi cứu, cắt dọc. Thu thập các kết quả trước, trong và sau mổ đồng thời phân tích các khối dữ liệu thu được trong quá trình theo dõi bệnh nhân về dài hạn.

Dân số được chọn là tất cả các bệnh nhân được phẫu thuật tại Viện Tim thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1993 đến hết năm 2009 với chẩn đoán sau mổ là hở van hai lá bẩm sinh đơn thuần. Loại trừ các bệnh nhân hở van hai lá do nguyên nhân khác hoặc hở van hai lá bẩm sinh phối hợp với các dị tật tim khác như thông liên thất, thông liên nhĩ, còn ống động mạch...

Các khối dữ liệu cần thu thập bao gồm: các đặc điểm bệnh lý trước mổ, chẩn đoán dạng tổn thương và nguyên nhân hở van hai lá trong mổ, thời gian theo dõi và kết quả siêu âm tim xa nhất sau mổ cũng như các biến cố ghi nhận được trong quá trình theo dõi.

Các biến định lượng được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn

Các biến  định tính, các biến cố liên quan được trình bày đưới dạng tần suất phần trăm và hoặc tần suất đường thẳng ( linearized rate).

Tỷ lệ bệnh nhân còn sống đến cuối quá trình theo dõi cũng như tỷ lệ bệnh nhân không gặp biến cố liên quan được trình bày theo biểu đồ Kaplan-Meier.

Phân tích kết quả thống kê được thực hiện bằng chương trình SPSS for Window phiên bản 13.0

Kết quả: từ tháng 2 năm 1993 đến hết tháng 12 năm 2009, tại Viện Tim thành phố Hồ chí Minh chúng tôi đã mổ cho 77 trường hợp hở van hai lá bẩm sinh đơn thuần. Tuổi trung bình là 9,4 tuổi ± 7,8 năm  (nhỏ nhất 6 tháng và lớn nhất 45 tuổi), trong đó nhóm tuổi dưới 6 tuổi chiếm 25 trường hợp (32,5%). Trẻ em dưới 16 tuổi chiếm đa số với 71 trường hợp. Nam giới: 40 (51,9%).

Siêu âm tim qua thành ngực chỉ chẩn đoán chính xác nguyên nhân bẩm sinh trong 40% trường hợp. Các trường hợp còn lại, nguyên nhân hở van do bẩm sinh được chẩn đoán trong mổ với các thương tổn đặc trưng như van hai lá có dạng 2 lỗ, chẻ lá van trước hoặc lá van sau (mitral valve cleft)... Trong các trường hợp tồn tại chẻ lá van, chỉ 2 BN có chẻ không hoàn toàn còn lại 10 trường hợp có chẻ hoàn toàn và không có dây chằng treo. Tất cả các trường hợp được mổ với hở van hai lá nặng trước mổ. Có 2 đường tiếp cận van hai lá. Ở người lớn, vào van hai lá qua đường xẻ chọn lọc trên nhĩ trái. Ở trẻ em, van hai lá được bộc lộ qua đường xẻ vách liên nhĩ theo hình vòng cung hướng về tĩnh mạch phổi phải.

Hình 1: Chẻ lá trước van hai lá: trước và sau khi phẫu thuật tạo hình van


Tạo hình van chiếm 75 trường hợp (97,4%), hai trường hợp phải thay van nhân tạo.Một trường hợp van có dạng Hammock-Parachute phải thay van ngay từ đầu. Trường hợp còn lại, tạo hình van cho kết quả không tốt và BN được thay van ngay sau đó. Chúng tôi áp dụng chủ yếu các kỹ thuật sửa van của Carpentier, các kỹ thuật này được liệt kê trong bảng 2. Số kỹ thuật trung bình được thực hiện trên một bệnh nhân là 2,5 (ít nhất 1, nhiều nhất 5 kỹ thuật), 64 trường hợp (83%) có đặt vòng van nhân tạo Carpentier-Edward. Các trường hợp còn lai được tạo hình vòng van sau bằng một dải màng ngoài tim hoặc Teflon.

Theo timmachhoc.vn

PK Đức Tín

Print Chia sẽ qua facebook bài: Hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần: Từ chuẩn đoán đến điều trị phẫu thuật (P.1) Chia sẽ qua google bài: Hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần: Từ chuẩn đoán đến điều trị phẫu thuật (P.1) Chia sẽ qua twitter bài: Hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần: Từ chuẩn đoán đến điều trị phẫu thuật (P.1) Chia sẽ qua MySpace bài: Hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần: Từ chuẩn đoán đến điều trị phẫu thuật (P.1) Chia sẽ qua LinkedIn bài: Hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần: Từ chuẩn đoán đến điều trị phẫu thuật (P.1) Chia sẽ qua stumbleupon bài: Hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần: Từ chuẩn đoán đến điều trị phẫu thuật (P.1) Chia sẽ qua icio bài: Hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần: Từ chuẩn đoán đến điều trị phẫu thuật (P.1) Chia sẽ qua digg bài: Hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần: Từ chuẩn đoán đến điều trị phẫu thuật (P.1) Chia sẽ qua yahoo bài: Hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần: Từ chuẩn đoán đến điều trị phẫu thuật (P.1) Chia sẽ qua yahoo bài: Hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần: Từ chuẩn đoán đến điều trị phẫu thuật (P.1) Chia sẽ qua yahoo bài: Hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần: Từ chuẩn đoán đến điều trị phẫu thuật (P.1) Chia sẽ qua yahoo bài: Hở van 2 lá bẩm sinh đơn thuần: Từ chuẩn đoán đến điều trị phẫu thuật (P.1)

Tin tức liên quan

Ý KIẾN KHÁCH HÀNG

  • Tôi Nguyễn Thanh Sang, sinh năm 1990. Từ sau khi khám và điều trị tại phòng khám Đức Tín, tôi rất biết ơn Bác Sĩ đã giải thích và chia sẽ về bệnh tình của tôi. Trong suốt thời gian điều trị tại phòng khám tôi được chắm sóc rất tận tình của nhân viên phòng khám. giờ đây bệnh tình của tôi đã được cải thiện theo chiều hướng tốt. Mong phòng khám ngày càng phát triển hơn để có thể cứu được nhiều bệnh nhân.

    Tôi thành thật cảm ơn!. sđt: 0938303275

  • Tôi Huỳnh Thị Mười, sinh năm 1940 đã khám và điều trị tại phòng khám Đức Tín. Tôi rất hài lòng về cách phục vụ và chăm sóc bệnh nhân của phòng khám. Bác Sĩ rất tận tâm giải thích và chia sẻ cùng với bẹnh nhân.

    Tôi Huỳnh Thị Mười xin thành thật cảm ơn!SĐT: 0972868746

  • Theo tôi nhận định PK Đức Tín là nơi cả gia đình tôi đặt niềm tin, hi vọng khi đến khám. Bác sĩ tận tình, chu đáo, hòa nhã với bệnh nhân. Y tá và nhân viên PK lịch sự, vui vẻ, chu đáo. PK sạch sẽ, vô trùng nên tôi rất thích. ĐT: 0949914060.

  • Bác sĩ rất tận tình, chu đáo và Y tá rất dịu dàng, lịch sự, niềm nở với tôi. Phòng khám sạch sẽ, thoải mái, lịch sự. Tôi rất thích PK Đức Tín. Mỗi khi đến khám bệnh tôi rất an tâm. ĐT: 0839820792.

  • Tôi là bệnh nhân, đã tới phòng khám Ths.Bs. Lê Đức Tín. Tôi thấy bác sĩ rất tận tâm chăm sóc bệnh nhân, giải đáp mọi thắc mắc và nhân viên rất tận tình từ nhân viên tiếp tân đến các em xét nghiệm, điều dưỡng. Phòng khám rất sạch sẽ và khang trang. Tôi rất hài lòng. ĐT: 01227880829.

Tìm kiếm
Hỗ trợ khách hàng

    Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
    Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389

TOP