Vì quan điểm về liều của thuốc lợi tiểu trong điều trị tăng huyết áp đã thay đổi theo thời gian (hiện nay lợi tiểu liều thấp được khuyến cáo sử dụng), các phân tích gộp riêng rẻ về lợi tiểu liều thấp và liều cao được tiến hành. Thử nghiệm về lợi tiểu liều thấp là thử nghiệm mà trong đó liều điều trị tối đa cho phép của lợi tiểu (thường là thêm vào ở bước 2) bằng hay nhỏ hơn 50mg đối với hydrochlorothiazide hay chlorthalidone và bằng hay nhỏ hơn 5mg đối với bendrofluazide hay indapamide.
Có 8 thử nghiệm được xếp vào nhóm thử nghiệm lợi tiểu liều thấp và 4 thử nghiệm được xếp vào nhóm liều cao. Tất cả các kết cục quan tâm đều giảm đáng kể với lợi tiểu liều thấp, với tỷ số nguy cơ rất giống với tỷ số nguy cơ được tìm thấy trong toàn thể phân tích gộp về lợi tiểu (h.2a). Chỉ có đột quỵ và 2 nhóm biến cố gộp là giảm có ý nghĩa với lợi tiểu liều cao, còn mức giảm về BMV và tử vong tim mạch hay tử vong chung không đạt ý nghĩa thống kê (h.2b). Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng trong các thử nghiệm về lợi tiểu liều cao mức nguy cơ tim mạch toàn bộ thấp hơn nhiều so với các thử nghiệm về lợi tiểu liều thấp (ở nhóm thử nghiệm liều cao nguy cơ tử vong tim mạch là 4.8% trong 10 năm so với 17.6% ở nhóm liều thấp) và do vậy phân tích gộp về lợi tiểu liều cao có độ mạnh thống kê thấp hơn so với phân tích gộp về lợi tiểu liều thấp.
Các phân tích gộp riêng rẻ về từng loại lợi tiểu cũng được thực hiện, nhưng chỉ giới hạn ở các thử nghiệm sử dụng lợi tiểu liều thấp (h.3). Có sự giảm có ý nghĩa biến cố đột quỵ,
biến cố gộp đột quỵ + BMV, biến cố gộp đột quỵ + BMV + suy tim, và biến cố tử vong tim mạch khi dùng thiazide liều thấp; giảm có ý nghĩa biến cố đột quỵ, BMV, suy tim và biến cố gộp của chúng (nhưng không giảm tử vong tim mạch và tử vong chung) với chlorthalidone liều thấp; và giảm có ý nghĩa đột quỵ, biến cố gộp đột quỵ + BMV, và tử vong chung với indapamide liều thấp.
Chẹn beta:
Bảng 2 liệt kê 5 TNNNĐC (18 724 bệnh nhân) được đưa vào phân tích gộp sơ cấp với số liệu được lấy từ các thử nghiệm có đối chứng với giả dược trong đó nhánh điều trị được bắt đầu cho dùng chẹn beta và có thêm 1 thử nghiệm nữa được đưa vào phân tích gộp thứ cấp (thử nghiệm Swedish Trial in Old Patients with Hypertension, viết tắt là thử nghiệm STOP-Hypertension), trong đó 2/3 số bệnh nhân được cho dùng chẹn beta còn 1/3
chỉ dùng lợi tiểu. Trong phân tích gộp sơ cấp, mức giảm HA tâm thu/ tâm trương -10.5/-7.0 mmHg bằng chẹn beta so với giả dược (hay không điều trị gì cả) (hình 4) kéo theo giảm có ý nghĩa biến cố đột quỵ [-23% (KTC -3%, -39%)] và các biến cố tim mạch chính [như giảm biến cố gộp đột quỵ + BMV -16% (-5%,-26%), giảm biến cố gộp đột quỵ + BMV+suy tim -21% (-3%,-36%)]. Chỉ có 2 thử nghiệm cho kết quả khác nhau về tần suất mới mắc của suy tim, nhưng cũng đều giảm có ý nghĩa và đáng kể [-43% (-9%,-69%). Tỷ số nguy cơ cũng nhỏ hơn 1.0 đối với BMV, tử vong tim mạch và tử vong chung, nhưng không đạt ý nghĩa thống kê. Gộp thêm thử nghiệm STOP [35] vào phân tích gộp thứ cấp sẽ làm mức giảm nguy cơ tương đối của biến cố tử vong tim mạch đạt ý nghĩa thống kê [-23% (-1%,-40%)]. Tính không thuần nhất chỉ đạt ý nghĩa thống kê (p<0.1) đối với biến cố gộp đột quỵ + BMV + suy tim trong phân tích gộp sơ cấp, nhưng tăng nhẹ trong phân tích gộp thứ cấp (h.4).
Tần suất mới mắc tuyệt đối của các kết cục tim mạch trong nhóm chứng được biểu thị ở h.4: trị số trung bình của tần suất tử vong tim mạch là 3.7% sau 5 năm. Mức giảm nguy cơ tuyệt đối do dùng chẹn beta (phân tích gộp sơ cấp) lên tới 7 ca đột quỵ và 16 biến cố tim mạch chính cho mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị trong 5 năm (NNT lần lượt là 136 và 64).
Việc quy chuẩn hóa tỷ số nguy cơ về mức giảm HA tâm thu/ tâm trương 10/5 mmHg (đây là trị số gần với trị số xảy ra trong thực tế) chỉ làm giảm nhẹ các trị số gốc: đối với đột quỵ là 0.80 (0.66-0.97); suy tim 0.73 (0.55-0.95); biến cố gộp đột quỵ + BMV + suy tim 0.82 (0.69-0.98); và tử vong tim mạch 0.87 (0.73-1.04).
Theo timmachhoc.vn
PK Đức Tín
Tin tức liên quan
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389