Trong một nghiên cứu đoàn hệ lớn gồm những phụ nữ mang thai được bảo hiểmchi trả, những người uống thuốc chẹn beta, chủ yếu là labetalol để điều trị tănghuyết áp không bị tăng nguy cơ có con bị dị tật tim bẩm sinh hơn những phụ nữ khác, sau khi điều chỉnh sự khác biệt giữa hai nhóm phụ nữ.
Theo Lewel Duan,nam California và các cộng sựbáo cáo trong một công bố trực tuyến ngày 17 tháng 4 năm 2017 trong JAMA Internal Medicine: Mặc dù những phát hiện này không loại trừ tuyệt đối khả năng bị dị tật tim bẩm sinh của bào thai có liên quanvới việc sử dụng thuốc chẹn beta, nhưng kết quả này cung cấp sự đảm bảo về việc sử dụng chẹn betađể điều trị bệnh tim ở phụ nữ có thai.
Duan và các đồng nghiệp lưu ý: “Mặc dù chẹn beta là loại thuốc thường được sử dụng phổ biến nhất để điều trị bệnh tim ở phụ nữ có thai, nhưng một phân tích gộp gần đây cho thấy loại thuốc này có liên quan đến các khuyết tật tim bẩm sinh ở trẻ sơ sinh”.
Họ đã xác định được 379.238 phụ nữ trong cơ sở dữ liệu Kaiser Permanente, nam California,sinh con trong khoảng từ năm 2003 đến năm 2014.
Trong số những phụ nữ này, 4.847 phụ nữ (1,3%) đã được kê thuốc có chẹn beta trong suốt thai kỳ.
Hầu hết những phụ nữ này đã được kê toavớiLabetalol (3.357 phụ nữ, 69%) và được kê toa với số lượng ít hơn là Atenolol (638 phụ nữ, 13%), Propranolol (489 phụ nữ, 10%), Metoprolol (324 phụ nữ, 7%) hoặc một thuốc chẹn beta khác (39 phụ nữ, 0,01%).
Khoảng một nửa số phụ nữ đã dùng thuốc chẹn beta trong tam cá nguyệt đầu của thai kỳ(2.628 phụ nữ, 54%).
So với các phụ nữ mang thai khác, những người được kê thuốc chẹn beta trong thời gian mang thai thì lớn tuổi hơn (tuổi trung bình là 33 tuổi so với 30 tuổi) và có chỉ số khối cơ thể lớn hơn(32 so với 26).
Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (venous thromboembolism - VTE) là nguyên nhân tim mạch gây tử vong xếp hàng thứ 3 sau đột quỵ và nhồi máu cơ tim. Theo khuyến cáo của ACCP 2016, bệnh nhân VTE được điều trị kháng đông trong 3 tháng hoặc lâu hơn tùy thuộc vào nguy cơ tắc mạch và xuất huyết. Ở nhóm bệnh nhân có nguy cơ xuất huyết thấp, điều trị kháng đông mở rộng (kéo dài trên 3 tháng) được ưu tiên lựa chọn hơn điều trị chỉ giới hạn trong 3 tháng. Một loạt vấn đề liên quan đến dự phòng VTE được nhiều nhà lâm sàng quan tâm: điều trị mở rộng với kháng đông liệu có đem lại lợi ích nhiều hơn nguy cơ xuất huyết? Lựa chọn thuốc chống huyết khối nào trong giai đoạn điều trị mở rộng?
Theo medscape.com
PK Đức Tín
Tin tức liên quan
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389