Sự liên quan đến tiên lượng của biến thiên HA mỗi lần thăm khám trong những nghiên cứu này hỗ trợ cho khuyến cáo để tránh sự kiểm soát HA không đều và sự khác biệt lớn về HA trong lần khám này so với lần khám kế tiếp, bằng cách cho liều lượng đầy đủ và điều chỉnh liều điều trị hạ huyết áp và bằng cách cải thiện tuân thủ điều trị.Tuy nhiên, những dữ liệu này chỉ liên quan đến những bệnh nhân tăng huyết áp có nguy cơ tim mạch cao
Ngược lại, phân tích hậu kiểm các dữ liệu từ ELSA [51] cho thấy ở những bệnh nhân tăng huyết áp nhẹ đến trung bình được điều trị có nguy cơ tim mạch tương đối thấp, biến thiên HA qua các lần thăm khám ít hoặc không có đóng góp vào dự đoán nguy cơ tim mạch hơn so với HA trung bình. Biến thiên HA qua mỗi lần thăm khám liên quan đến sự tiến triển của tổn thương cơ quan hoặc biến cố tim mạch [51]. Hơn nữa, trong một nghiên cứu ở những người khỏe mạnh đại diện cho dân số chung theo dõi trong 12 năm, biến thiên HA qua mỗi lần thăm khám ở từng cá nhân không góp phần vào sự phân tầng nguy cơ so với HA tâm thu trung bình [105]. Các kết quả này cho thấy mức độ liên quan đến lâm sàng của biến thiên HA qua mỗi lần thăm khám ít nhất một phần phụ thuộc vào mức độ nguy cơ tim mạch toàn phần.Nghiên cứu của Muntner và đồng nghiệp [106] đã cho thấy vai trò tiên đoán của biến thiên HA qua mỗi lần thăm khám (được định nghĩa là độ lệch chuẩncủa ba lần đo OBP được thực hiện trong một lần khám bệnh), có thể phản ánh hiệu quả của hội chứng áo choàng trắng. Trái với các nghiên cứu về biến thiên huyết áp tâm thu qua mỗi lần thăm khám, trong đó có liên quan chặt chẽ với kết cục và mức độ cao ở các lần đo được báo cáo trên những bệnh nhân có nguy cơ cao, biến thiên HA khi thăm khámtrong thời gian ngắn không có khả năng lặp lại được cũng không kết hợp với nguy cơ gia tăng về tử vong do tim mạch hay do tất cả các nguyên nhân trong nghiên cứu với cỡ mẫu 15.317 người trong dân sốchung [106]. Mặc dù cần nhiều dữ liệu hơn để làm sáng tỏ vấn đề này nhưng bằng chứng hiện tại cho thấy biến thiên HA dựa trên các giá trị đạt được trong phòng khám hoặc trên lâm sàng nên tập trung vào các số liệu đo được trong thời gian theo dõi dài hơn.
Đích điều trị hạ huyết áp?
Các nghiên cứu thực nghiệm trên chuột đã chỉ ra tác dụng có lợi của một số nhóm thuốc như thuốc chẹn kênh calci, trong việc giảm biến thiên HA ngắn hạn và trong ngăn ngừa tổn thương tim, thận và não [107]. Các nghiên cứu như vậy cũng gợi ý các cơ chế hợp lý cho những lợi ích này, ví dụ như phục hồi độ nhạy của phản xạ áp lực [108,109]. Hầu hết các nghiên cứu trên người, sử dụng ABPM xâm lấn hay không xâm lấn, cho thấy biến thiên HA 24 giờ giảm tương ứng với giảm HA trung bình với một loạt các phương pháp điều trị hạ huyết áp [110-117]. Vì vậy, hiệu quả của trị liệu hạ áp đối với biến thiên HA ngắn hạn có thể là kết quả của việc giảm HA lâu dài.Cần thêm bằng chứng về thời gian để xác định liệu một số loại thuốc hoặc chiến lược điều trị có ảnh hưởng lớn hơn đến biến thiên HA 24 giờ so với những thuốc khác hay chiến lược khác hay không, và liệu việc điều trị giảm biến thiên HA trong thời gian ngắn cũng có thể làm giảm sự xuất hiện hay tiến triển của tổn thương cơ quan và nguy cơ biến cố tim mạch độc lập với HA trung bình [9].
Hiện tại, chỉ có bằng chứng cho thấy điều chỉnh biến thiên HA 24 giờvới điều trị hạ áp ở người có thể là sự bảo vệ tim mạch từ các nghiên cứu mà trong đó chỉ số êm dịu (SI: smoothness index) được sử dụng để đánh giá mức độ phân bố theo thời gian của việc giảm HA do điều tri [39,118]. Từ phân tích ABPM 24 giờ được thực hiện trước và trong quá trình điều trị thuốc, trung bình của sự thay đổi HA 24 giờ và độ lệch chuẩn của nó được xác định. SI là tỷ số giữa mức trung bình thay đổi HA 24 giờ do một loại thuốc nhất định và độ lệch chuẩn của nó (Hình 5a).Chỉ số này cung cấp một thước đo về cả biên độ và sự phân bố thời gian của việc giảm HA do một thuốc hoặc nhiều thuốc phối hợp. SI cũng đã được chứng minh có liên quan đến sự thoái triển tổn thương cơ tim do thuốc(ví dụ, phì đại thất trái) [39] và giảm sự tiến triển độ dày thành động mạch cảnh, độc lập với HA trung bình nền [118]. (Hình 5b)
Hình 5. Đo lường và tiên lượng của SI. a. Tính SI từcác giá trịHA hàng giờthu được trước và trong quá trình điều trịbằng cách theo dõi huyết áp 24 giờ. SI được tính bằng cách tính toán các giá trịHA trung bình cho mỗi giờtrong 24 giờ, cảtrước và trong điều trị. Từnhững giá trịnày, thu được tất cảcác thay đổi của HA theo từng giờdo điều trị, và trung bình các giá trịhàng giờ(ΔH) được tính cùng với độlệch chuẩn, nó đại diện cho sựphân tán của hiệu quảhạhuyết áp qua các giá trị24 giờ. Cuối cùng, độlệch chuẩn được chuẩn hóa bằng cách chia giá trịcho ΔH, và ngược lại của tỷsốnày cho biết mức độ'êm dịu' của việc giảm HA bằng cách điều trịđược gọi là "chỉsốêm dịu". b. Mối liên quan giữa SI của huyết áp tâm thu, với sựthay đổi độlệch chuẩn huyết áp tâm thu trong 24 giờ(bên trái), trong LVMI (bên phải) và trong CBmax IMT (dưới cùng) sau 12 tháng điều trịhạhuyết áp. Các giá trịcao hơn của SI có liên quan đến việc giảm đáng kểcác chỉsốđộdày lớp nội trung mạc động mạch cảnh trong quá trình điều trị, độc lập với giá trịHA nền cho thấy, đối với hình thái động mạch cảnh, sựêm dịu của việc giảm HA thậm chí còn quan trọng hơn sựthay đổi tuyệt đối của nó. Viết tắt: BP, blood pressure; CBmax IMT, maximum value of common carotid artery plus bifurcation mean maximum intima–media thickness; ∆H, average of treatment-induced BP reductions for each hour over 24 h; LVMI, left ventricular mass index; SI, smoothness index.
Theo timmachhoc.vn
PK Đức Tín
Tin tức liên quan
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389