SIÊU ÂM TIM GẮNG SỨC TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐÁNH GIÁ BỆNH ĐỘNG MẠCH VÀNH (P.1)
Ngày 08/11/2017 07:58 | Lượt xem: 1102
Bệnh động mạch vành (ĐMV) là bệnh lý được gây ra chủ yếu do hệ thống ĐMV bị vữa xơ làm hẹp lòng ĐMV, làm giảm tưới máu cơ tim, gây mất cân bằng cung và cầu oxy cơ tim. Bệnh ĐMV nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời sẽ gây nhiều biến chứng nặng nề dẫn đến tử vong và tàn phế cho những người đang còn tuổi lao động.
Bệnh động mạch vành (ĐMV) là bệnh lý được gây ra chủ yếu do hệ thống ĐMV bị vữa xơ làm hẹp lòng ĐMV, làm giảm tưới máu cơ tim, gây mất cân bằng cung và cầu oxy cơ tim. Bệnh ĐMV nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời sẽ gây nhiều biến chứng nặng nề dẫn đến tử vong và tàn phế cho những người đang còn tuổi lao động. Ở nước ta bệnh đang có xu hướng tăng lên đặc biệt trong những năm gần đây. Ngày nay có nhiều phương pháp được áp dụng để chẩn đoán bệnh như điện tim khi nghỉ, điện tim gắng sức, đồng vị phóng xạ, chụp ĐMV. Siêu âm tim gắng sức (Stress Echocardiography - SAGS) là phương pháp thăm dò không chảy máu dùng để khảo sát hoạt động co bóp cuả cơ tim trong khi nghỉ và trong các giai đoạn gắng sức qua đó đánh giá tình trạng thiếu máu của cơ tim. SAGS được Feigenbaum công bố vào những năm cuối của thập niên 70, nhưng trong thời gian đầu phương pháp này không được hưởng ứng rộng rãi do những khó khăn trong lưu giữ và phân tích kết quả. Giữa những năm 80 siêu âm được gắn các thiết bị điện toán, đặc biệt là kỹ thuật ghi hình số hoá (Digital) đã giúp cho việc ghi nhận và lưu trữ và phân tích hình ảnh siêu âm tim trở nên dễ dàng và chính xác hơn, do đó SAGS phát triển hết sức mạnh mẽ. Trong bài viết này chúng tôi muốn giới thiệu nguyên lý và những ứng dụng của siêu âm tim gắng sức, đặc biệt là SAGS bằng Dobutamin (SAGSD) trong chẩn đoán và tiên lượng bệnh ĐMV.
I. NGUYÊN LÝ CỦA SIÊU ÂM TIM GẮNG SỨC:
Hình 1 : Phản ứng của tim trong tiến trình thiếu máu cơ tim
Bình thường lưu lượng máu qua động mạch vành là 60-80 ml/phút/100g cơ tim, chiếm 4,6% lưu lượng tuần hoàn toàn cơ thể. Tuần hoàn vành có cung lượng thấp nhưng lại cung cấp nhiều 0xy nhất. Dự trữ 0xy của cơ tim hầu như không có, chủ yếu là chuyển hoá ái khí nên khi có tăng nhu cầu thì phải đáp ứng bằng tăng cung lượng vành. Cung lượng vành phụ thuộc vào áp lực đưa máu vào động mạch vành và sức cản của tuần hoàn vành. Sự giảm lưu lượng vành gây thiếu máu cơ tim có nguyên nhân chủ yếu là hẹp đường kính động mạch do vữa xơ động mạch vành, gây nên giảm lượng máu cung cấp cho cơ tim đặc biệt là khi gắng sức. Mức độ hẹp của động mạch sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cơ tim trong tình trạng thiếu máu cũng như quyết định tính chất cấp tính của hình ảnh lâm sàng. Khi cơ tim hoạt động trong tình trạng thiếu máu, tế bào cơ tim phải chuyển hoá theo con đường yếm khí gây những rối loạn về chuyển hoá, chức năng và điện học trong tế bào cơ tim. Qua những thí nghiệm trên động vật và quan sát hoạt động của cơ tim trong tình trạng hẹp ĐMV cho thấy sau khi làm tắc nghẽn một động mạch vành một vài giây sẽ sảy ra tình trạng rối loạn co bóp vùng cơ tim mà ĐMV tưới máu. Theo trình tự phản ứng của cơ tim trong tiến trình thiếu máu cơ tim cấp thì sự rối loạn chức năng co bóp của cơ tim trong thời kỳ tâm thu ở vùng cơ tim thiếu máu xảy ra rất sớm, sau đó mới đến sự thay đổi trên điện tâm đồ và tiếp sau đó nữa mới xuất hiện các triệu chứng lâm sàng như cơn đau thắt ngực. SAGS chủ yếu phát hiện sự xuất hiện của các rối loạn vận động thành thất trong tình trạng gắng sức, nhằm đánh giá chức năng động mạch vành. Sự xuất hiện của rối loạn vận động thành thất trong tình trạng gắng sức được xem là hình ảnh tương đối đặc hiệu của bệnh ĐMV.
PK Đức Tín
Tin tức liên quan
Ý KIẾN KHÁCH HÀNG
Tìm kiếm
Tin nóng
Hỗ trợ khách hàng
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389