Sự thay đổi luân phiên sóng T và các ứng dụng lâm sàng (P.1)
Ngày 26/03/2018 05:58 | Lượt xem: 1693

Sự thay đổi luân phiên sóng T (T wave alternans: TWA) là sự biến đổi định kỳ từ nhát bóp này sang nhát bóp khác về biên độ hoặc hình dạng của sóng T trên điện tâm đồ, có thể nhìn thấy được ("macroscopic" TWA), hoặc phải nhận định qua các thiết bị điện tử (microvolt TWA).

 

Sự thay đổi luân phiên sóng T (T wave alternans: TWA) là sự biến đổi định kỳ từ nhát bóp này sang nhát bóp khác về biên độ hoặc hình dạng của sóng T trên điện tâm đồ, có thể nhìn thấy được ("macroscopic" TWA), hoặc phải nhận định qua các thiết bị điện tử (microvolt TWA).

Từ những năm đầu của Thế kỷ XX (1908), người ta đã qua sát và mô tả lần đầu tiên sự thay đổi luân phiên của sóng T. Trong thời gian này, chỉ có những thay đổi lớn ("macroscopic" TWA) mới có thể được phát hiện. Các TWA lớn này đã được kết hợp với tăng nguy cơ nhịp nhanh thất nguy hiểm (Hình 1).

Hình 1.Biến đổi luân phiên sóng T đại thể trên điện tâm đồ bề mặt.

Tài liệu tham khảo hiện đại nhất về TWA ám chỉ microvolt TWA (MTWA), một thử nghiệm (test) tim không xâm lấn có thể xác định bệnh nhân có nguy cơ đột tử do tim. Nó thường được sử dụng ở những bệnh nhân có nhồi máu cơ tim hoặc tổn thương tim khác để xem họ có nguy cơ cao phát triển một rối loạn nhịp tim có khả năng gây tử vong. Những người được xác định là có nguy cơ cao, do đó sẽ được hưởng lợi từ việc cấy một thiết bị khử rung tim có thể điều trị ngay rối loạn nhịp tim và cứu mạng sống của bệnh nhân.

Kiểm tra TWA sử dụng một điện tâm đồ (ECG ) đo dẫn điện của tim. Thử nghiệm tìm kiếm sự hiện diện của quá trình tái cực biến đổi luân phiên, đó là sự thay đổi trong vector và biên độ của các thành phần sóng T của điện tâm đồ. Số lượng biến thể là nhỏ, ở vào mức độ microvolts, kỹ thuật xử lý tín hiệu kỹ thuật số rất nhạy cảm cần thiết để phát hiện TWA.

Nghiên cứu thực hiện vào đầu những năm 1980 của Tiến sĩ Richard Cohen và đồng nghiệp của ông tại MIT (Massachusetts Institute of Techology) khám phá ý tưởng các biến đổi luân phiên (alternans) của sóng T trực quan không thể nhận rõ và các biến đổi có thể nhìn rõ có thể là quan trọng như nhau. Những nỗ lực thành lập một liên kết giữa các biến đổi luân phiên trực quan không thể nhận thấy ở mức độ microvolt và nhạy cảm với rối loạn nhịp tim và cho thấy các thay đổi luân phiên là một hiện tượng phụ thuộc tần số tim. Ngoài ra, Tiến sĩ Joseph Smith, làm việc với Tiến sĩ Cohen đã phát triển một phương pháp gọi là phương pháp quang phổ cho phép đo lường của biến đổi luân phiên của sóng T ở cấp độ microvolt.

Phân tầng lâm sàng nguy cơ cho đột tử tim dựa cơ bản vào sự có mặt của phân suất tống máu thất trái giảm và sự hiện diên của suy tim. Tuy nhiên, các chỉ số này nhận biết chỉ một số nhỏ các cá thể sẽ tử vong đột ngột và cũng chỉ nhận biết những người không chịu đựng được loạn nhịp thất nguy hiểm. Kết quả có tầm quan trọng tiếp theo trong các chỉ số điện sinh lý bổ xung vào cho dự bào nguy cơ, một trong những chỉ số đó là sự thay đổi luân phiên của sóng T (TWA) có nhiều hứa hẹn nhất.

TWA dựa vào sự thay đổi từ nhịp này đến nhịp khác trong điều biến hoặc hình dạng của các sóng T trên điểm tâm đồ bề mặt (ECG). TWA phản ánh sự không đồng nhất theo thời gian hoặc sự phân tán trong khử cực thất, là cơ chế quan trọng nền tảng cho loạn nhịp vào lại. Một số nghiên cứu cho thấy TWA có thể tăng thêm giá trị cho tín hiệu trung bình ECG, biến đổi nhịp tim và chỉ số khác. TWA được Cơ quan thực phẩm và thuốc Hoa Kỳ (FDA) chấp thuận cho việc dự báo không thâm nhập nguy cơ loạn nhịp thất nguy hiểm (VT, VF).

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tóm lược các nghiên cứu ứng dụng lâm sàng của TWA trong dự báo nguy cơ loạn nhịp nguy hiểm.

PHÂN TẦNG NGUY CƠ CHO ĐỘT TỬ TIM

TWA được sử dụng đầu tiên như là một phương tiện cho phân tầng nguy cơ đột tử tim. Đại đa số các nỗ lực tập trung vào các bệnh nhân có nhồi máu cơ tim trước đó, giảm phân suất tống máu và hoặc suy tim có triệu chứng. Mới gần đây, TWA được nghiên cứu ở các quần thể đa dạng hơn.

            Đứng về mặt lịch sử có thể chia các nghiên cứu TWA làm 3 giai đoạn:

  • Các nghiên cứu nhận thấy TWA phù hợp với các kết quả do nghiên cứu điện sinh lý bằng kích thích thất có chương trình (EPs).
  • Các nghiên cứu chỉ ra TWA dự báo loạn nhịp thất tự phát ở các bệnh nhân rối loạn chức năng thất trái, có hoặc không có bệnh tim do mạch vành (CHD) và có hoặc không có suy tim có triệu chứng.
  • Các nghiên cứu lượng giá TWA cho dự báo loạn nhịp thất tự phát ở các quần thể bệnh nhân khác, bao gồm các bệnh nhân phì đại thất trái hoặc có bệnh thận giai đoạn cuối. Mặc dù TWA ngày càng được áp dụng cho dân số rộng lớn hơn, định lý Bayes đòi hỏi khả năng thử nghiệm trước cho mỗi quần thể cư dân được xem xét khi giải thích được kết quả. Đây là một vấn đề quan trọng khi sự liên kết giữa TWA và loạn nhịp ít rõ ràng hơn ở các bệnh nhân không có nền cho sự phát triển vào lại (tức là, các bệnh nhân không có rối loạn chức năng tâm thất trái, bệnh cấu trúc, hoặc sự mất đồng nhất về điện sinh lý đã được biết).

Có hai phương pháp chủ yếu để xác định TWA, các phương pháp quang phổ và phương pháp trung bình các chuyển động cải biên mới hơn.

            Các kết quả không xác định

Mặc dù hầu hết dữ liệu đã được tích luỹ bằng cách sử dụng các phương pháp quang phổ, khoảng 20-40% của các test kiểm tra TWA được phân loại là "không xác định," trong đó các kết quả của thử nghiệm không chứng minh hoặc loại trừ sự hiện diện của TWA. Trong các tài liệu đầu tiên, các test được coi là không xác định dựa trên yếu tố bệnh nhân (ví dụ, các ngoại vị thất thường xuyên hoặc tần số tim không đạt đích), cũng như các yếu tố kỹ thuật (ví dụ, các nhiễu đáng kể trên điện tâm đồ). Hiện nay, bệnh nhân được khuyến khích ngay lập tức thử lại nếu có kết quả là không xác định…

Tỷ lệ cao các kết quả không xác định là một thách thức trong ứng dụng lâm sàng của TWA bằng phương pháp quang phổ. Một số nhà nghiên cứu đã bao gồm kết quả không xác định với các nghiên cứu bất thường, theo thể loại "không âm". Cách tiếp cận này được các kết quả tương tự ở các bệnh nhân có TWA bất thường ủng hộ và họ có các nghiên cứu không xác định, nếu không xác định là do bệnh nhân liên quan đến chứ không phải là yếu tố kỹ thuật.

      Nguyên nhân và ý nghĩa tiên lượng kết quả không xác định được đánh giá trực tiếp trong một loạt 549 bệnh nhân bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ và không do thiếu máu cục bộ. Kết quả sau đây đã được báo cáo:

• 191 bệnh nhân (35%) đã có một kết quả không xác định.

• Trong số các kết quả không xác định, 51% do không có khả năng để đạt được một nhịp tim chẩn đoán (105 nhịp / phút ), và 32% là do ngoại vị thất, trong khi chỉ có 6 phần trăm là do các yếu tố kỹ thuật.

• Tỷ lệ biến cố hai năm cho các tiêu chí kết hợp tử vong hoặc loạn nhịp thất dai dẳng cho những bệnh nhân có kết quả TWA không xác định, dương tính, âm tính là  12,3, 17,8 , và 2,4%, theo thứ tự.

      Như vậy, kết quả không xác định là phổ biến, thường là do các yếu tố bệnh nhân, tử vong được dự đoán và tần số loạn nhịp thất tương tự như những kết quả dương tính. Những quan sát này ủng hộ tài chính cho thử nghiệm TWA là hữu ích nhất để xác định bệnh nhân có nguy cơ thấp cho các loạn nhịp thất thông qua kết quả âm tính của nó.

            Dự đoán VT và VF được thúc đẩy trong nghiên cứu điện sinh lý

Khả năng để tạo ra nhịp nhanh thất dai dẳng (VT) và trong một số trường hợp, rung tâm thất (VF) trong nghiên cứu điện sinh lý (EP) từ lâu đã được sử dụng để dự đoán các biến cố loạn nhịp tim ở những bệnh nhân bị bệnh mạch vành. Kết quả, phần lớn các nghiên cứu ban đầu của TWA được sử dụng có thể thúc đẩy VT và VF khi thay thế tiêu chí cho nguy cơ loạn nhịp. Những nghiên cứu này đã chứng minh sự hiện diện của TWA trong quá trình tạo nhịp tâm nhĩ hoặc tâm thất hoặc gắng sức tương quan với khả năng gây ra loạn nhịp thất ở bệnh nhân trải qua nghiên cứu điện sinh lý.

Một nghiên cứu ban đầu có ảnh hưởng đến các phát triển về sau gồm 83 bệnh nhân có nguy cơ cao cho loạn nhịp thất, đã được dựa vào nghiên cứu điện sinh lý. TWA trong khi tạo nhịp nhĩ có độ nhạy và độ đặc hiệu thúc đẩy VT hay VF là 81 và 84%, theo thứ tự. Giá trị tương tự (88% và 78%) đã được ghi nhận trong một báo cáo khác. Nghiên cứu lớn hơn gồm 313 bệnh nhân dựa vào nghiên cứu điện sinh lý cho ngất, nhịp nhanh thất, SCD, hoặc, trong 31%, loạn nhịp trên thất. Độ nhạy và độ đặc hiệu của TWA trong quá trình gắng sức cho các dự đoán của VT hay VF có thể bị thúc đẩy trong nghiên cứu ở tỷ lệ 78 ​​và 73%.

            Dự đoán các biến cố loạn nhịp tim lâm sàng

Có sự đồng nhất giữa TWA và kết quả từ nghiên cứu điện sinh lý, nghiên cứu chuyển sang tập trung vào các tiện ích của TWA để dự đoán các biến cố loạn nhịp tim tự phát. Giá trị của TWA, như với bất kỳ xét nghiệm chẩn đoán, phụ thuộc vào dân số bệnh nhân được nghiên cứu. Vai trò của TWA trong các quần thể khác nhau được trình bầy một cách khái quát.

            Các quần thể dân số không được chọn

Các nghiên cứu đã xem xét các giá trị tiên đoán của TWA đo bằng phương pháp trung bình động sửa đổi ở những bệnh nhân trải qua thử nghiệm gắng sức và không được xác định là có nguy cơ cao đối với loạn nhịp thất.

• Trong một nghiên cứu lớn nhất 3598 bệnh nhân trải qua test gắng sức, nguy cơ tử vong tim mạch và đột tử do tim tăng dần với mỗi lần tăng 20 microvolt trong TWA ở chuyển đạo V5 ( tỷ lệ nguy hiểm 1.5 [ 95 % CI 1,2-2,1 ] và 1,6 [ 95 % CI 1,0-2,4 ], tương ứng, cho mỗi lần tăng 20 microvolt).

• Trong một nghiên cứu nhỏ trên gần 2000 bệnh nhân trải qua kiểm tra căng thẳng từ dân số tương tự, bất thường TWA và phục hồi nhịp tim được đánh giá. Cả hai bất thường TWA và bất thường TWA kết hợp với phục hồi nhịp tim bất thường có liên quan với tăng nguy cơ tử vong tim mạch (nguy cơ tương đối 5.0 [ 95 % CI 2,1-12,1 ] và 6.1, tương ứng [95 CI 2,8-13,2 %]).

           

            Bệnh nhân có nguy cơ cao đối với loạn nhịp thất

Trong một báo cáo sơ bộ, bệnh nhân TWA dương đã có sự sống sót do loạn nhịp thấp hơn đáng kể trong vòng 20 tháng so với những bệnh nhân có thử nghiệm TWA âm tính (19 so với 94%). Kết quả tương tự đã được báo cáo trong loạt khác, nhưng nhiều số liệu ban đầu này được bắt nguồn từ bệnh nhân liên tiếp dựa trên nghiên cứu điện sinh lý với nhiều chẩn đoán. Do sự không đồng nhất của các quần thể này, rất khó để khái quát tính chính xác dự báo của TWA từ những nghiên cứu này. Hạn chế này đã được nhấn mạnh trong báo cáo tiếp theo 108 bệnh nhân có nguy cơ cao, trong đó đặc trưng của TWA cho các biến cố loạn nhịp tim chỉ có 43%.

Một phân tích gộp vào năm 2006 gồm 2.608 bệnh nhân từ 19 nghiên cứu tiền cứu của TWA (đo quang phổ) trong một loạt các cơ sở y tế: bảy nghiên cứu suy tim không do thiếu máu cục bộ, ba nghiên cứu suy tim không xác định, hai nghiên cứu suy tim thiếu máu cục bộ, ba nghiên cứu các bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim, một nghiên cứu người có ICD, một nghiên cứu của các bệnh nhân tim thể thao và hai nghiên cứu của các cá nhân lành mạnh. Những phát hiện sau đây đã được báo cáo:

• Các tổng giá trị tiên đoán dương và âm của TWA cho biến cố loạn nhịp thất tương ứng 19% và 97% .

• Giá trị tiên đoán dương tính thấp và giá trị tiên đoán âm cao hơn một chút ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim (6% và 99%, tương ứng). Tuy nhiên, các bệnh nhân trong các nghiên cứu sau MI có LVEFs trung bình từ 45 đến 56 phần trăm .

• Độ chính xác tiên đoán của TWA là không khác nhau đáng kể trong suy tim thiếu máu cục bộ và không do thiếu máu cục bộ.

Theo timmachhoc.vn

PK Đức Tín

Print Chia sẽ qua facebook bài: Sự thay đổi luân phiên sóng T và các ứng dụng lâm sàng (P.1) Chia sẽ qua google bài: Sự thay đổi luân phiên sóng T và các ứng dụng lâm sàng (P.1) Chia sẽ qua twitter bài: Sự thay đổi luân phiên sóng T và các ứng dụng lâm sàng (P.1) Chia sẽ qua MySpace bài: Sự thay đổi luân phiên sóng T và các ứng dụng lâm sàng (P.1) Chia sẽ qua LinkedIn bài: Sự thay đổi luân phiên sóng T và các ứng dụng lâm sàng (P.1) Chia sẽ qua stumbleupon bài: Sự thay đổi luân phiên sóng T và các ứng dụng lâm sàng (P.1) Chia sẽ qua icio bài: Sự thay đổi luân phiên sóng T và các ứng dụng lâm sàng (P.1) Chia sẽ qua digg bài: Sự thay đổi luân phiên sóng T và các ứng dụng lâm sàng (P.1) Chia sẽ qua yahoo bài: Sự thay đổi luân phiên sóng T và các ứng dụng lâm sàng (P.1) Chia sẽ qua yahoo bài: Sự thay đổi luân phiên sóng T và các ứng dụng lâm sàng (P.1) Chia sẽ qua yahoo bài: Sự thay đổi luân phiên sóng T và các ứng dụng lâm sàng (P.1) Chia sẽ qua yahoo bài: Sự thay đổi luân phiên sóng T và các ứng dụng lâm sàng (P.1)

Tin tức liên quan

Ý KIẾN KHÁCH HÀNG

  • Tôi Nguyễn Thanh Sang, sinh năm 1990. Từ sau khi khám và điều trị tại phòng khám Đức Tín, tôi rất biết ơn Bác Sĩ đã giải thích và chia sẽ về bệnh tình của tôi. Trong suốt thời gian điều trị tại phòng khám tôi được chắm sóc rất tận tình của nhân viên phòng khám. giờ đây bệnh tình của tôi đã được cải thiện theo chiều hướng tốt. Mong phòng khám ngày càng phát triển hơn để có thể cứu được nhiều bệnh nhân.

    Tôi thành thật cảm ơn!. sđt: 0938303275

  • Tôi Huỳnh Thị Mười, sinh năm 1940 đã khám và điều trị tại phòng khám Đức Tín. Tôi rất hài lòng về cách phục vụ và chăm sóc bệnh nhân của phòng khám. Bác Sĩ rất tận tâm giải thích và chia sẻ cùng với bẹnh nhân.

    Tôi Huỳnh Thị Mười xin thành thật cảm ơn!SĐT: 0972868746

  • Theo tôi nhận định PK Đức Tín là nơi cả gia đình tôi đặt niềm tin, hi vọng khi đến khám. Bác sĩ tận tình, chu đáo, hòa nhã với bệnh nhân. Y tá và nhân viên PK lịch sự, vui vẻ, chu đáo. PK sạch sẽ, vô trùng nên tôi rất thích. ĐT: 0949914060.

  • Bác sĩ rất tận tình, chu đáo và Y tá rất dịu dàng, lịch sự, niềm nở với tôi. Phòng khám sạch sẽ, thoải mái, lịch sự. Tôi rất thích PK Đức Tín. Mỗi khi đến khám bệnh tôi rất an tâm. ĐT: 0839820792.

  • Tôi là bệnh nhân, đã tới phòng khám Ths.Bs. Lê Đức Tín. Tôi thấy bác sĩ rất tận tâm chăm sóc bệnh nhân, giải đáp mọi thắc mắc và nhân viên rất tận tình từ nhân viên tiếp tân đến các em xét nghiệm, điều dưỡng. Phòng khám rất sạch sẽ và khang trang. Tôi rất hài lòng. ĐT: 01227880829.

Tìm kiếm
Hỗ trợ khách hàng

    Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
    Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389

TOP