Bệnh nhân bị bệnh mạch vành
Bệnh nhân bị bệnh mạch vành (CHD) có hoặc không có nhồi máu cơ tim trước (MI) đại diện cho dân số nghiên cứu rộng rãi nhất cho phân tầng nguy cơ loạn nhịp tim sử dụng thử nghiệm TWA. Mặc dù các báo cáo mô tả ở trên bao gồm những bệnh nhân như vậy, có đến 31% đã thực hiện EPS chỉ không liên quan đến bệnh tim mạch hoặc rối loạn nhịp thất.
Bệnh nhân bị bệnh mạch vành
Bệnh nhân bị bệnh mạch vành (CHD) có hoặc không có nhồi máu cơ tim trước (MI) đại diện cho dân số nghiên cứu rộng rãi nhất cho phân tầng nguy cơ loạn nhịp tim sử dụng thử nghiệm TWA. Mặc dù các báo cáo mô tả ở trên bao gồm những bệnh nhân như vậy, có đến 31% đã thực hiện EPS chỉ không liên quan đến bệnh tim mạch hoặc rối loạn nhịp thất.
Nghiên cứu tiếp theo đã giới hạn ở bệnh mạch vành và bệnh nhân sau MI đã làm rõ vai trò của TWA trong dân số này. Một cuộc thảo luận chung về phân tầng nguy cơ tử vong do loạn nhịp tim sau MI sẽ được trình bày ở một chuyên mục.
Các quan sát sau đây minh họa phạm vi phát hiện:
• Giá trị của TWA và điện thế trễ trên tín hiệu điện tâm đồ trung bình (SAECG) trong việc dự đoán các biến cố lâm sàng được đánh giá trong một nghiên cứu tiền cứu trên 102 bệnh nhân nhồi máu cơ tim vừa mới xảy ra (từ 7 đến 30 ngày); 49% có TWA và 21% điện thế trễ. Sau theo dõi 13 tháng, nguy cơ nhịp nhanh thất kéo dài (VT) hay rung tâm thất (VF) đã được tăng lên ở những bệnh nhân TWA, đặc biệt là những người cũng có điện thế trễ (Hình 2 và Hình 3). Độ nhạy và độ đặc hiệu của TWA để dự đoán các biến cố loạn nhịp tim là 93% và 59%, tương ứng.
• Trong một phân tích lớn hơn đa trung tâm gồm 850 người sống sót liên tiếp sau nhồi máu cơ tim, TWA được đánh giá trong tuần 2 đến 10 tuần ở 701 bệnh nhân và từ vài tháng đến hai năm ở 149 bệnh nhân. TWA dương tính ở 302 bệnh nhân (36%), âm tính ở 437 (52%) và không xác định ở 95 bệnh nhân (12%). Theo dõi trung bình là 25 tháng, 67 bệnh nhân (8%) đã đột tử do tim, VF, hoặc VT được hồi sức. Trong số 11 biến được lượng giá về giá trị tiên đoán, chỉ có hai dự đoán đáng kể tử vong hoặc hồi sức VF trên phân tích đa biến: TWA (nguy cơ tương đối [RR] 5.9) và phân suất tống máu thất trái (LVEF) < 40% (RR 4.4). Độ nhạy và độ đặc hiệu của TWA để dự đoán biến cố loạn nhịp tim là 92 và 61%. TWA cũng tiên đoán các biến cố loạn nhịp tim trong một nghiên cứu lớn hơn giới hạn cho các bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim có phân suất tống máu bảo tồn (LVEF ≥ 40%).
• Các giá trị tiên lượng độc lập của TWA được đánh giá trong một nghiên cứu quan sát gồm 768 bệnh nhân có nguy cơ cao với bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ. Hơn 80% đã có một MI trước, các LVEF trung bình là 27 phần trăm và 51 phần trăm đã có một ICD. Tất cả bệnh nhân đều được TWA thử nghiệm và 67% với kết quả bất thường hoặc không xác định (gọi tắt là "không âm") được so sánh với những người có TWA âm tính. Qua theo dõi trung bình là 18 tháng, kết quả TWA không âm có liên quan đến tất cả các nguyên nhân được tăng lên và tử suất loạn nhịp tim (tỷ lệ rủi ro điều chỉnh 2.24 và 2.29, tương ứng, so với những bệnh nhân có TWA âm tính). Các kết quả này cung cấp bằng chứng cho thấy TWA mang giá trị tiên lượng độc lập khi áp dụng cho một dân số có nguy cơ cao.
Giá trị của TWA cho phân tầng nguy cơ loạn nhịp tim sau MI có thể phụ thuộc vào thời gian sau khi MI từ nghiên cứu thu được. Đặc biệt, đánh giá cho TWA có thể không có giá trị được thực hiện khi ra viện. Điều này đã được đưa ra trong báo cáo của 379 bệnh nhân sau MI trong đó TWA được đánh giá trong một thử nghiệm gắng sức có giới hạn triệu chứng trước khi ra viện; TWA đã có mặt ở 56 (15%). Trong 14 tháng theo dõi, 26 bệnh nhân đã chết, không ai trong số họ có TWA. Đo TWA trong tháng đầu tiên sau MI cũng không hữu ích để dự đoán SCD trong nghiên cứu REFINE.
Hinh 2.Biến đổi luân phiên tái cực (RPA) dự báo biến cố loạn nhịp tiếp sau nhồi máu cơ tim (Theo Ikeda T, Sakata T, Takami M, et al, J Am Coll Cardiol 2000; 35:722.)
Hình 3.Sự thay đổi luân phiên tái cực (RPA) và điện thế trễ (LP) dự báo biến cố loạn nhịp sau nhồi máu cơ tim. (Theo Ikeda T, Sakata T, Takami M, et al, J Am Coll Cardiol 2000; 35:722.)
Bệnh nhân tiểu đường
Từ lâu người ta đã hiểu bệnh nhân tiểu đường có tương đương với bệnh động mạch vành và nguy cơ đối đột tử do tim (SCD) đang tăng lên một cách đặc trưng. Các nghiên cứu gần đây cho thấy nguy cơ cho SCD ở bệnh tiểu đường là tương đương với nguy cơ rối loạn tâm trương thất trái và các rủi ro được cộng lại, nếu cả hai đều có mặt. Nó đã được đề xuất trong một số thử nghiệm TWA gần đây (đo quang phổ) có hiệu quả có thể phân tầng nguy cơ ngừng tim đột ngột (SCA) ở bệnh nhân tiểu đường, mặc dù các nghiên cứu khác cảnh báo TWA bất thường trong quần thể này thực sự cho thấy do kiểm soát đường huyết kém. Nghiên cứu sâu hơn cần thiết để xác định vai trò của kiểm tra TWA ở bệnh nhân tiểu đường.
Theo timmachhoc.vn
PK Đức Tín
Tin tức liên quan
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389