Tóm tắt hướng dẫn chẩn đoán và điều chỉnh ngất của ESC năm 2018 - P2
Ngày 07/11/2018 11:04 | Lượt xem: 1844

Ngất được định nghĩa khi TLOC do giảm tưới máu não, được đặc trưng bằng khởi phát nhanh, khoảng thời gian ngắn và phục hồi hoàn toàn tự phát.

Ngất được chia ra nhiều đặc tính lâm sàng với các rối loạn khác; do đó nó thể hiện ở nhiều chẩn đoán khác biệt. Nhóm rối loạn này được đặt là TLOC.

3. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ SINH LÝ BỆNH

3.1 Các khái niệm

• Ngất được định nghĩa khi TLOC do giảm tưới máu não, được đặc trưng bằng khởi phát nhanh, khoảng thời gian ngắn và phục hồi hoàn toàn tự phát.

Ngất được chia ra nhiều đặc tính lâm sàng với các rối loạn khác; do đó nó thể hiện ở nhiều chẩn đoán khác biệt. Nhóm rối loạn này được đặt là TLOC.

• TLOC được định nghĩa là tình trạng LOC thực sự hoặc rõ ràng với mất nhận thức, đặc trưng bằng chứng mất trí nhớ trong thời gian bất tỉnh, kiểm soát thần kinh vận động bất thường, mất khả năng đáp ứng, khoảngthời gian ngắn. Hai nhóm TLOC chính là ‘TLOC do chấn thương đầu và‘ TLOC không do chấn thương ”(Hình 2). TLOCchấn thươngsẽ không được xem xét thêm trong tài liệu này, vì vậy TLOC sẽ được sử dụng có nghĩa là TLOC không chấn thương. Các đặc điểm lâm sàng đặc trưng cho TLOC thường xuất phát từ việc sử dụngbệnh sử nhận được từ các bệnh nhân vàcácnhân chứng. Các đặc điểm chuyên biệt hỗ trợ cho chẩn đoán được nêu trong phần 3 của Hướng dẫn thực hành trên trang Web. Các nhóm TLOC được xác định bằng cách sử dụng sinh lý bệnh: tiêu chuẩn đủ điều kiện cho ngất là suy giảm tưới máu não; đối với co giật động kinh, là hoạt động não quá mức bất thường; và đối với TLOC tâm lý, đó là quá trình đảo ngược (conversion) tâm lý. Định nghĩangấtdựa trên sinh bệnh học vì không có tập hợp các đặc điểm lâm sàng bao gồm tất cả các dạng ngất trong khi cũng loại trừ tất cả các cơn co giật động kinh và các biến cố TLOC tâm thần.

• Tiền ngất (presyncope) thêm vàođược sử dụng để chỉ ra các triệu chứng và dấu hiệu xảy ra trước khi mất ý thức trong ngất. Lưu ý danh từ tiền ngất (presyncope) thường được sử dụng để mô tả một trạng thái tương tự nhưtiền triệu(prodrome)của syncope, nhưngLOC không tiếp theo các tiền triệu này.

Một loạt các thuật ngữ được sử dụng thường không đối chọi các định nghĩa trong tài liệu này đủ chặt chẽ để được sử dụng làm từ đồng nghĩa của các thuật ngữ được định nghĩa. Ví dụ, 'bất tỉnh'(faint) thích hợp một cách tương xứng với ngất nhưng nhấn mạnh ngất do cường phế vị (vasovagalsyncope:VVS)hơn các hình thái khac. Bảng chú giải thuật ngữ không chắc chắn được trình bày trong phần 1 của Hướng dẫn thực hành của trang Web.

 

Minh họa ở trung tâm Các khái niệm mới / sửa đổi trong điều chỉnh ngất. ECG = điện tâm đồ; ED = khoa cấp cứu; ICD = máy khử rung tim có thể cấy; SCD = đột tử do tim.

Hình 2:Ngất trong bối cảnh mất ý thức thoáng qua. Mất ý thức tạm thời không do chấn thương được phân loại thành một trong bốn nhóm: ngất, co giật động kinh, mất ý thức tạm thời tâm lý, và một nhóm nguyên nhânhỗn hợphiếm gặp. Thứ tự này đại diện cho tỷ lệ xảy ra của họ. Kết hợp xảy ra; ví dụ. mất ý thức thoáng qua không do chấn thương có thể gây ra ngã với chấn động, trong trường hợp mất ý thức thoáng qua cả hai chấn thương và không chấn thương. TIA = cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua; TLOC = mất ý thức thoáng qua.

3.2 Phân loại và sinh lý bệnh của ngất và mất ý thức tạm thời thoáng qua

3.2.1 Ngất

Bảng 3 cung cấp phân loại các nguyên nhân chính gây ngất, nhấn mạnh các nhóm rối loạn với sinh lý bệnhthông thường, biểu hiện và nguy cơ. Các đặc điểm lâm sàng, dịch tễ học, tiên lượng, tác động đến chất lượng sống và các vấn đề kinh tế được trình bày trong phần 2 của Hướng dẫn thực hành trêntrangweb. Phân loại sinh lýbệnhtập trung vào suy sụp huyết áp hệ thống (BP) với sự giảm tưới máu não toàn bộ như con đường trung tâm thường gặp cuối cùng của ngất.Mất đột ngột dòng máu não trong khoảng thời gian ngắn6-8 s có thể gây ra LOC hoàn toàn. HA tâm thu ở mức 50–60 mmHg ở mứcngang vớitim, tức là 30–45 mmHg ở mức độ não ở vị trí thẳng đứng, sẽ gây ra LOC.[8,9]

BP hệ thống là sản phẩm củacung lượng timvà tổng trở kháng ngoại biên; sự suy sụpcó thể gây ngất. Tuy nhiên, trong ngất, cả hai cơ chế thường hoạt động cùng với nhau ở mức độ khác nhau.

Có ba nguyên nhân chính của tổng trởkhángngoại vi thấp. Đầu tiên là hoạt động phản xạ giảm gây giãn mạch thông quangừng co mạch do giao cảm: đây là type ngất phản xạ do giãn mạch, thấy ở vòng ngoài trong Hình 3. Thứ hai là suy giảm chức năng, thứ ba là suy giảm cấu trúc của thần kinh tự trị hệ thống, với sự suy giảmtính tự động nguyên phát và thứ phát được do thuốc gây ra ở vòng ngoài. Trong suy giảm tính tự động, Có sự co mạch hệ thống không đầy đủ đáp ứng với tư thể thẳng đứng.

Có bốn nguyên nhân chính gây ra cung lượng tim thấp. Thứ nhất do nhịp tim chậm phản xạ, được gọi ngất phản xạ do ức chế tim.Thứ hai, quan tâm đến các nguyên nhân tim mạch: loạn nhịp tim, bệnh cấu trúc gồm thuyên tắc phổi, và tăng áp phổi. Thứ ba,hồi lưu tĩnh mạch không đầy đủ do sự suy giảm thể tích hoặc ứ trệ tĩnh mạch. Cuối cùng, sự bất lực về điều biến tần số và co bóp do việc suy yếu tính tự động có thể làm suy giảm cung lượng tim.

Lưu ý những cơ chế chính này có thể tương tác theo những cách khác nhau: thứ nhất, ứ trệ tĩnh mạch và sự hồi lưu tĩnh mạch không đầy đủ cũng là một yếu tố có thể kích hoạt phản xạ không phù hợp trong ngất phản xạ tư thế đứng; thứ hai,  tổng trởkhángngoại biên thấp có thể gây ra ứ trệ tĩnh mạchcủa máu bên dưới cơ hoành, lần lượt làm giảm sự hồi lưu tĩnh mạch và do đó giảm cung lượng tim.

Ba nhóm chính của ngất, tức là phản xạ, tim mạch, và thứ phát đối với tăng huyết áp thế đứng (OH), được hiển thị bên ngoài các vòng trong Hình 3. Cả hai ngất phản xạ và OH bao chùm hết hai cơ chế sinh lý bệnh chính.

3.2.2 Các hình thái không phải ngất (thực sự hoặc dường như) của mất ý thức tạm thời

Những nguyên nhân ít gặp của TLOC chỉ hiếm khi gây nhầm lẫn với các hình thái TLOC chính, có lẽ do trong hầu hết các trường hợp, chúng khác biệt đủ về mặt lâm sàng để rõ ràng không phải là ngất. Cả hai cơn tấn công thiếu máu cục bộ động mạch đốt sống nền tạm thời (TIA) và hội chứng cướp máu dưới đòn được kết hợp với các dấu hiệu thần kinh khu trú. Xuất huyết dưới nhện có thể xuất hiện với LOC ngắn, nhưng nhức đầu ghê gớm gợi ý nguyên nhân. Trong mê ngừng thở xanh tím (cyanotic breathholding spells), ngưng thở thở ra cùng với thiếu ô xy là cơ chế chính. [10] Vì vậy, được gọi là "Mê ngưng thở xanh nhợt" (pallid reath-holding spells) ở trẻ em không phải là một vấn đề hô hấp chính, nhưng là phản xạ ức chế tim. [11]

Chỉ có các hình thái động kinh trong đó kiểm soát vận động bình thường bị mất, vì vậy bệnh nhân có thể bị ngã, đã được bao gồm trong Hình 2. Đây là các co giật tăng trương lực, co giật, và giãn, và có thể được phân loại là tiên phát hoặc thứ phát. Các dạng động kinh trong đó người ta vẫn ở tư thế thẳng đứng chủ động, tức là ngồi hoặc đứng (ví dụ như động kinh hoàn toàn một phần hoặc không có co giật) không được coi là TLOC, nhưng đôi khi chúng được chẩn đoán không chính xác là ngất.

TLOC tâm lý bao gồm hai dạng: một dạng giống như co giật động kinh (co giật tâm lý không phải động kinh[PNES]) và mộthình thái, không có chuyển động lớn, giống như ngất (giả ngất tâm lý[PPS]).

Những nguyên nhân hiếm của TLOC chỉ hiếm khi gây nhầm lẫn với các hình thái TLOC chính, có lẽ do trong hầu hết các trường hợp, chúng đủ để phân biệt rõ ràng không phải là ngất. Cả hai cơ thiếu máu cục bộ tạm thời động mạch đốt sống nền(TIAs) và hội chứng cướp máu dưới đòn được kết hợp với các dấu hiệu thần kinh khu trú. Xuất huyết dưới nhện có thể biểu hiện với LOC ngắn, nhưngđược kết hợpđau đầu kinh khủng đột ngột gợi ý nguyên nhân. Trong cáccơn ngưng thể xanh tím, ngừng thở khi ngủ với thiếu ô xy là cơ chế chính. [10]Còn gọi 'cơn ngưng thở xanh tim’ (pallid breath holding spells) ở trẻ em không phải là một vấn đề hô hấp chính, mà ngất phản xạ do ức chế tim.[11] Bảng 4 liệt kê các đặc tính chính để phân biệt ngất với các rối loạn có thể nhầm lẫn với ngất.

Hình 3: Cơ sở sinh bệnh học của phân loại ngất. ANS = hệ thần kinh tự trị; auton. = tự trị; BP = huyết áp; OH = hạ huyết áp thế đứng; periph. = ngoại vi; resist. = đề kháng.Vasodepressor: giãn mạch. Mixed: hỗn hợp. inapropriate reflex: phản xạ không phù hợp. cardioinhibitory: ức chế tim. Arrhythmia: rối loạn nhịp. structural cardiac: tim cấu trúc. Drug induced ANF: ANF được tạo ra do thuốc. Prinmary auton. ANF: tự trị tiên phát; structural damage ANS: tổn thương cấu trúc. Inadequate venous return: hồi lưu tĩnh mạch không phù hợp. Cardiac (pulmonary): tim (phổi). Venous pooling: tập trung tĩnh mạch. Volume depletion: thiếu hụt thể tích. Secondary auton: tự trị thứ phát. Orthostatic hypotension: hạ huyết áp tư thế. Low preriph. resist:  Sức cản ngoại vị thấp. Low cardiac output: cung lượng tim thấp.

Theo timmachhoc.vn

PK Đức Tín

Print Chia sẽ qua facebook bài: Tóm tắt hướng dẫn chẩn đoán và điều chỉnh ngất của ESC năm 2018 - P2 Chia sẽ qua google bài: Tóm tắt hướng dẫn chẩn đoán và điều chỉnh ngất của ESC năm 2018 - P2 Chia sẽ qua twitter bài: Tóm tắt hướng dẫn chẩn đoán và điều chỉnh ngất của ESC năm 2018 - P2 Chia sẽ qua MySpace bài: Tóm tắt hướng dẫn chẩn đoán và điều chỉnh ngất của ESC năm 2018 - P2 Chia sẽ qua LinkedIn bài: Tóm tắt hướng dẫn chẩn đoán và điều chỉnh ngất của ESC năm 2018 - P2 Chia sẽ qua stumbleupon bài: Tóm tắt hướng dẫn chẩn đoán và điều chỉnh ngất của ESC năm 2018 - P2 Chia sẽ qua icio bài: Tóm tắt hướng dẫn chẩn đoán và điều chỉnh ngất của ESC năm 2018 - P2 Chia sẽ qua digg bài: Tóm tắt hướng dẫn chẩn đoán và điều chỉnh ngất của ESC năm 2018 - P2 Chia sẽ qua yahoo bài: Tóm tắt hướng dẫn chẩn đoán và điều chỉnh ngất của ESC năm 2018 - P2 Chia sẽ qua yahoo bài: Tóm tắt hướng dẫn chẩn đoán và điều chỉnh ngất của ESC năm 2018 - P2 Chia sẽ qua yahoo bài: Tóm tắt hướng dẫn chẩn đoán và điều chỉnh ngất của ESC năm 2018 - P2 Chia sẽ qua yahoo bài: Tóm tắt hướng dẫn chẩn đoán và điều chỉnh ngất của ESC năm 2018 - P2

Tin tức liên quan

Ý KIẾN KHÁCH HÀNG

  • Tôi Nguyễn Thanh Sang, sinh năm 1990. Từ sau khi khám và điều trị tại phòng khám Đức Tín, tôi rất biết ơn Bác Sĩ đã giải thích và chia sẽ về bệnh tình của tôi. Trong suốt thời gian điều trị tại phòng khám tôi được chắm sóc rất tận tình của nhân viên phòng khám. giờ đây bệnh tình của tôi đã được cải thiện theo chiều hướng tốt. Mong phòng khám ngày càng phát triển hơn để có thể cứu được nhiều bệnh nhân.

    Tôi thành thật cảm ơn!. sđt: 0938303275

  • Tôi Huỳnh Thị Mười, sinh năm 1940 đã khám và điều trị tại phòng khám Đức Tín. Tôi rất hài lòng về cách phục vụ và chăm sóc bệnh nhân của phòng khám. Bác Sĩ rất tận tâm giải thích và chia sẻ cùng với bẹnh nhân.

    Tôi Huỳnh Thị Mười xin thành thật cảm ơn!SĐT: 0972868746

  • Theo tôi nhận định PK Đức Tín là nơi cả gia đình tôi đặt niềm tin, hi vọng khi đến khám. Bác sĩ tận tình, chu đáo, hòa nhã với bệnh nhân. Y tá và nhân viên PK lịch sự, vui vẻ, chu đáo. PK sạch sẽ, vô trùng nên tôi rất thích. ĐT: 0949914060.

  • Bác sĩ rất tận tình, chu đáo và Y tá rất dịu dàng, lịch sự, niềm nở với tôi. Phòng khám sạch sẽ, thoải mái, lịch sự. Tôi rất thích PK Đức Tín. Mỗi khi đến khám bệnh tôi rất an tâm. ĐT: 0839820792.

  • Tôi là bệnh nhân, đã tới phòng khám Ths.Bs. Lê Đức Tín. Tôi thấy bác sĩ rất tận tâm chăm sóc bệnh nhân, giải đáp mọi thắc mắc và nhân viên rất tận tình từ nhân viên tiếp tân đến các em xét nghiệm, điều dưỡng. Phòng khám rất sạch sẽ và khang trang. Tôi rất hài lòng. ĐT: 01227880829.

Tìm kiếm
Hỗ trợ khách hàng

    Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
    Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389

TOP