Điều trị tăng huyết áp kháng trị và tăng huyết áp bất trị (P1)
Ngày 30/10/2020 09:14 | Lượt xem: 645

Tăng huyết áp kháng trị (THAKT) được định nghĩa là huyết áp không kiểm soát được mặc dù đã sử dụng ≥ 3 nhóm thuốc hạ huyết áp ở liều tối đa hoặc liều tối đa dung nạp được, bao gồm lợi tiểu, thường là thiazide- like, ức chế kênh canxi tác dụng dài và ức chế hệ RAA (Renin-Angiotensin-Aldosterone), như ức chế men chuyển (UCMC) hay ức chế thụ thể (UCTT).

Việc không tuân trị thuốc huyết áp và hội chứng áo choàng trắng- định nghĩa là huyết áp tăng khi do tại các cơ sở y tế nhưng kiểm soát tốt khi ở ngoài cơ sở y tế- cần được loại trừ để xác lập chẩn đoán. THAKT làm tăng nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân và làm nặng thêm kết cục bệnh tim mạch. Thói quen sống lành mạnh giúp làm giảm nguy cơ tim mạch trên bệnh nhân tăng uyết áp kháng trị. Trên bệnh nhân THAKT thường có tình trạng dư thừa Aldosteron, nên việc bổ sung spironolacton hoặc amiloride vào chế độ 3 thuốc hạ huyết áp sẽ giúp đạt được huyết áp mục tiêu ở đa số bệnh nhân. Tăng huyết áp bất trị được định nghĩa là huyết áp không kiểm soát được với ≥ 5 nhóm thuốc hạ huyết áp ở liều tối đa hoặc liều tối đa dung nạp được, đã bao gồm  thuốc lợi tiểu Thiazide-like tác dụng dài và kháng thụ thể mineralcorticoid. Giữ nước thường do dư thừa Aldosterone là cơ chế chiếm đa số các trường hợp tăng huyết áp kháng trị, trong khi tăng huyết áp bất trị thường là do tăng hoạt tính giao cảm.

Bảng thuật ngữ
THAKT

(tăng huyết áp kháng trị)

HA vẫn duy trì ở trên mục tiêu mặc dù sử dụng đồng thời ≥3 thuốc hạ huyết áp loại, thường bao gồm một thuốc ức chế kênh canxi tác dụng dài, một thuốc ức chế hệ thống renin-angiotensin và thuốc lợi tiểu, ờ liều tối đa hoặc tối đa dung nạp được và đã được loại bỏ nguyên nhân gây kháng trị giả
Kháng trị giả Yếu tố làm tăng huyết áp giả tạo ở bệnh nhân dùng từ 3 thuốc hạ huyết áp trở lên, như kỹ thuật đo huyết áp không phù hợp, HC áo choàng trắng, điều trị dưới mức, sai sót lâm sàng và không tuân thủ thuốc.
Sai sót lâm sàng Thất bại trong việc thất lập mục tiêu phù hợp và leo thang điều trị để đạt mục tiêu
THAKT kiểm soát được Huyết áp được kiểm soát với ≥4 thuốc hạ áp với liều tối đa hoặc tối đa dung nạp được.
THAKT giả Thuật ngữ dùng khi bệnh nhân dùng ≥3 thuốc hạ áp mà chưa loại trừ các yếu tố gây kháng trị giả như: liều thuốc chưa đủ, không tuân trị,chưa theo dõi huyết áp ngoài phòng khám.
THAKT áo choàng trắng Thuật ngữ sử dụng khi HA tại phòng khám không kiểm soát được nhưng huyết áp ngoài phòng khám lại kiểm soát được ( cả HA tâm thu và tâm trương) ở bệnh nhân dùng ≥3 thuốc hạ áp.
THABT

(tăng huyết áp bất trị)

Huyết áp vẫn không kiểm soát được với liều tối đa hoặc gần tối đa của ≥5 nhóm thuốc hạ áp, đã bao gồm 1 lợi tiểu thiazide- like tác dụng dài (vd clorthalidone) và spironolactone.

 

Tăng huyết áp kháng trị (THAKT) được định nghĩa là huyết áp cao trên bệnh nhân có tiền sử tăng huyết áp dùng từ 3 nhóm thuốc hạ huyết áp khác nhau ở liều tối đa hoặc tối đa dung nạp được nhưng vẫn không đạt được huyết áp mục tiêu (các thuốc bao gồm: ức chế kênh canxi tác dụng dài, ức chế hệ RAA như ức chế men chuyển hay ức chế thụ thề, lợi tiểu). Định nghĩa cũng bao gồm các trường hợp kiểm soát được huyết áp nhưng cần từ 4 nhóm thuốc hạ huyết áp trở lên, gọi là THAKT kiểm soát được. Cần loại trừ một số nguyên nhân gây kháng trị giả như đo huyết áp sai kỹ thuật làm tăng chỉ số huyết áp; THAKT áo chàng trắng- huyết không kiểm soát được huyết áp tại phòng khám ở bệnh nhân sử dụng ≥3 thuốc hạ huyết áp; điều trị dưới mức, do sai sót lâm sáng dẫn đến đưa ra mục tiêu huyết áp không phù hợp và phải điều trị nhiều thuốc để đạt mục tiêu; và cuối cùng là do không tuân thủ điều trị. Thuật ngữ điều trị không triệt để được dùng để chỉ tình huống bệnh nhân được chẩn đoán THAKT dựa trên số lượng thuốc được kê và chỉ số huyết áo tại phóng khám mà chưa loại trừ các nguyên nhân gây kháng trị giả tạo bởi không theo dõi được sự tuân thủ thuốc hoặc mức huyết áp ngoài phòng khám.

Thuật ngữ THAKT dùng để xác định bệnh nhân tăng huyết áp khó điều trị và có thể đạt được lợi ích từ chẩn đoán hay qui trình điều trị đặc biệt hoặc được giới thiệu đến chuyên khoa về tăng huyết áp. Các nguyên cứu quan sát và thử nghiệm lâm sàng của điều trị huyết áp chỉ ra rằng những bệnh nhân THAKT đều tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch, so sánh với các bệnh nhân tăng huyết áp dễ trị, cũng như tăng nguy cơ biến cố tim mạch mặc dù kiểm soát huyết áp hiệu quả. Định nghĩa này cũng hữu ích để xác định chuẩn cơ bản của THAKT cho mục đích nghiên cứu, đặc biệt là các tiêu chí tuyển bệnh cho các nghiên cứu lâm sàng để đưa ra hướng điều trị cho các bệnh nhân THAKT trên toàn thế giới, bao gồm cả những thành tựu dựa trên các thiết bị mới.

Trong THAKT, có nhiều cơ chế gây bệnh nhưng quá tải dịch được cho là cơ chế chính. Hiện tượng giữ nước do lượng muối ăn vào, do tăng nhạy cảm muối, tuổi, béo phì, bệnh thận mạn và đặc biệt là cường Aldosteron làm tăng hoạt quá mức trục RAA, dẫn đến tình trạng huyết áp khó kiểm soát. Khi ngủ, áp lực lồng ngực âm kèm theo những cơn ngưng thở làm cho dịch di chuyển từ chân về vùng cổ, kết quả là phù nề vùng mô quanh thanh quản dễ gây ra nghẽn đường thở. Độ nặng của OSA  tỉ lệ thuận với tăng hoạt giao cảm, tác động  trên trục RAA, lại càng gây giữ nước, không chỉ làm tăng huyết áp mà còn tăng phù nề và tắc nghẽn đường thở, tạo ra vòng xoắn bệnh lý.

Kháng trị giả

Đa số các trường hợp huyết áp không kiểm soát được không thật sự do kháng thuốc mà do nhiều yếu tố dẫn đến hoặc duy trì mức huyết áp cao độc lập với điều trị thuốc, gọi là kháng trị giả. Trường hợp thường gặp nhất là do đo huyết áp không chính xác, dẫn đến đọc kết quả sai; hội chứng áo choàng trắng( huyết áp tại phòng khám thì cao mà ngoài phòng khám thì kiểm soát được); điều trị dưới mức, bao gồm sai sót lâm sàng và không tuân thủ thuốc (Hình 1). Xác định yếu tố gây kháng trị giả rất quan trọng để giảm chi phí và giảm nguy cơ tiềm tàng việc điều trị các bệnh nhân không thật sự kháng trị, cũng như tránh việc tăng cường điều trị không thích hợp có thể dẫn đến tăng chi phí và tăng nguy cơ xảy ra các biến cố nặng.

Sử dụng kĩ thuật đo huyết áp kém rất thường thấy ở các phòng khám, dẫn đến chỉ số huyết áp không chính xác. Một số lỗi thường gặp là không để người bệnh nghỉ ngơi trong một khu vực yên tĩnh, đo huyết áp khi người bệnh đứng hoặc nằm ngửa nói chuyện với người bệnh trong khi đo sử dụng băng quấn huyết áp quá nhỏ, quấn băng trên áo, và cuối cùng là sai số của máy đo huyết áp không tự động. Những lỗi này thường dẫn đến kết quả huyết áp cao giả và thường gặp ở những bệnh nhân được cho là THAKT không kiểm soát được. Trong một đánh giá tiên lượng được thực hiện ở phòng khám huyết áp, Bhatt và cộng sự so sánh huyết áp đo theo quy trình lọc bệnh với huyết áp được đo bởi những người được huấn luyện kỹ thuật đo trên cùng một bệnh nhân. Cách đo sau dùng một thiết bị dao động tự động có tên là BpTRU(VSM Med Tech, Ltd, Coquitlam, Canada). Tổng cộng 130 bệnh nhân được cho là THAKT không kiểm soát được đưa vào phân tích. Sau khi đo huyết áp theo quy trình lọc bệnh, người bệnh được đua vào một khu vực yên tĩnh, dùng băng quấn huyết áp đúng kích thước quấn vào ngay trên động mạch cánh tay và để yên trong 3-5 phút, ta gọi đây là quy trình chuẩn. Sau sáu lần đo tự động và không gây chú ý, 5 lần cuối được ghi nhận và tính kết quả trung bình. Giá trị huyết áp đo được ở quy trình lọc bệnh luôn cao hơn so với huyết áp ở quy trình chuẩn. Huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương ở quy trình lọc bệnh cao hơn ≤ 33/21 mmHg so với quy trình chuẩn, khác biệt trung bình là 23/13 mmHg. Nhìn tổng thể, qua so sánh này ta có thể loại được 33% người bệnh được chẩn đoán là THAKT không kiểm soát nếu chỉ dựa trên ở quy trình lọc bệnh. Phát hiện này cho thấy khoảng 1/3 người bệnh khám tại các phòng khám huyết áp có thể đã bị chẩn đoán sai là THAKT không kiểm soát nếu chỉ dựa trên các đo huyết áp thông thường, nhấn mạnh sự cần thiết của việc chuẩn hóa, tự động hóa phương pháp đo huyết áp để xác định THAKT thật sự.

THAKT áo choàng trắng là một nguyên nhân thường gặp khác gây kháng trị giả. De la Sierra và cộng sự đã xác định tỷ lệ THAKT áo choàng trắng trên hơn 8200 bệnh nhân đang mắc THAKT trong nghiên cứu Spanish Ambulatory Blood Pressure Monitoring Registry. Kết quả là 62.5% được phân loại đúng dựa trên huyết áp không kiểm soát được tại phòng khám cũng như theo dõi trên huyết áp 24h, tuy nhiên vẫn còn 37.5% được xác  định là hội chứng áp choàng trắng. Phát hiện này chỉ rõ hội chứng áo choàng trắng khá thường gặp trên bệnh nhân được nghi ngờ là THAKT không kiểm soát. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của việc đo huyết áp ở ngoài phòng khám một cách chính xác, mà lý tưởng là dựa trên huyết áp 24h để xác định THAKT thật sự. Một nghiên cứu khác của Muxfeldt và cộng sự nhấn mạnh sự cần thiết của việc liên tục theo dõi huyết áp ngoài phòng khám với THAKT áo choàng trắng. Trong 198 bệnh nhân được chẩn đoán THAKT áo choàng trắng được kiểm tra lại huyết áp 24h sau 18 tháng, khoảng 50% đúng là hội chứng áo choàng trắng, nhưng còn 50% được phân loại đúng là THAKT. Nghiên cứu này chỉ ra rằng đo huyết áp ngoài phòng khám là cần thiết để loại hội chứng áo choàng trắng và xác nhận THAKT thật sự, ngoài ra cũng tránh những điều trị không cần thiết với những bệnh nhân THAKT giả này. Phát hiện này cũng nhấn mạnh việc giám sát liên tục mức huyết áp ngoài phòng khám là cần thiết bởi nhiều bệnh nhân THAKT áo choàng trắng có thể diễn tiến thành THAKT thật sự và cần điều trị hạ huyết áp tích cực.

Điều trị dưới mức bao gồm thiếu điều trị tích cực ở bệnh nhân không kiểm soát huyết áp, gọi là trì trệ trong điều trị, thường gặp và càng ngày càng phổ biến vì số lượng thuốc ngày càng tăng. Egan và cộng sự làm nghiên cứu > 44000 bệnh nhân THAKT không kiểm soát (sử dụng thiết bị theo dõi điện tử) tham gia vào các khóa thực hành vì cộng đồng ở đông nam  nước Mỹ. Chì có 15% các trường hợp ghi nhận là được tối ưu chế độ hạ áp ( sử dụng 1 lợi tiểu và thêm ≥ 2 thuốc hạ huyết áp với hơn 50% liều tối đa khuyến cáo điều trị hạ áp. Ở các bệnh nhân được tối ưu chế độ điều trị, bao gồm cả lợi tiểu thì trung bình 4.2 loại thuốc được sử dụng ở bệnh nhân huyết áp chưa kiểm soát được và 4.9 loại thuốc ở bệnh nhân kiểm soát được. Phát hiện này cung cấp bằng chứng rằng việc trì trệ trong điều trị sẽ làm huyết áp không kiểm soát được trong thực hành lâm sàng.

Một nguyên nhân kháng gây kháng trị giả là kém tuân trị. Jung và cộng sự đánh giá tuân trị bằng cách đếm số lượng thuốc hạ huyết áp hoặc đo mức độ chuyển hóa thuốc trong nước tiểu của người bệnh THAKT thuộc các phòng khám huyết áp. Sau khi loại trừ các bệnh nhân kiểm soát được huyết áp khi tối ưu điều trị, bệnh nhân THAKT áo choàng trắng hay tăng huyết áp thứ phát, người ta cho kiểm tra 76 bệnh nhân được cho là THAKT thật sự. Dựa trên sự hiện diện thuốc trong nước tiểu hoặc mức độ chuyển hóa thuốc, chỉ có 36 người (47%) tuân thủ đầy đủ, 40 bệnh nhân (53%) là không tuân thủ. 12/40 người hoàn toàn không sử dụng thuốc do không phát hiện thuốc trong nước tiểu hay chuyển hóa thuốc, và phần lớn những bệnh nhân này là tuân trị 1 phần do chỉ sử dụng nửa liều thuốc được kê. Một nghiên cứu khác dựa trên nồng độ thuốc trong máu hay nước tiểu để phát hiện sự tuân trị ở bệnh nhân THAKT. Người ta thấy rằng số lượng thuốc kê toa ngày càng tăng và lịch sử dụng thuốc ngày càng phức tạp, tuân thủ chế độ điều trị lại giảm. Theo đó, điều trị THAKT thường trở nên phức tạp bởi tuân thủ ngày càng kém do quá nhiều thuốc. Thách thức lớn nhất trong việc quản lý bệnh nhân là đánh giá chính xác sự tuân thủ thuốc. Linh cảm của nhà lâm sàng thường không chính xác và bệnh nhân thường cường điệu khi báo cáo tuân thủ. Sự phát triển cách theo dõi y tế điện tử cho phép theo dõi tốt hơn các trường hợp từ chối theo dõi. Đối với những trường hợp từ chối dùng thuốc, đặc biệt các trường hợp từ chối thông qua mail, thì sự tuân thủ sẽ không chắc là thích hợp. Theo dõi bệnh nhân dùng thuốc để ghi nhận đáp ứng huyết áp không phù hợp thì không khả thi ở nhiều phòng khám do hạn chế về không gian và nhân sự. Các phòng thí nghiệm theo hướng thương mại hóa đang gia tăng kéo theo yêu cầu chuẩn hóa xét nghiệm hiện diện thuốc trong máu và nước tiểu và chuyển hóa thuốc, nhưng vấn đề về sự đồng ý của bệnh nhân và thiếu bảo hiểm chi trả cho xét nghiệm  cần phải được giải quyết để cho phép sử dụng thường quy trên lâm sàng.

Hội chứng ngưng thở lúc ngủ (OSA)

Hiện nay càng có nhiều nghiên cứu chỉ ra mối liên quan mật thiết giữa THAKT và THABT với hội chứng ngưng thở lúc ngủ. Các nghiên cứu cắt ngang cho thấy trong các bệnh nhân THAKT có khoảng 60-90% có OSA, tùy thuộc vào ngưỡng AHI của mỗi nghiên cứu. Mối liên hệ này được mô tả lần đầu bởi Logan và cộng sự vào năm 2001 với cỡ mẫu nhỏ ( 24 nam và 17 nữ), tỉ lệ OSA trong các bệnh nhân THAKT là 83%. Pedrosa và cộng sự cũng báo cáo con số  thu được là 64% trong một nghiên cứu đoàn hệ bao gồm 125 bệnh nhân. Một nghiên cứu tương tự với 204 bệnh nhân có trên 5 cơn ngưng thở trong 1 giờ, cho kết quả là 72.1%. Một số nghiên cứu khác được liệt kê trong bảng sau

TÊN NGHIÊN CỨU SỐ LƯỢNG BỆNH NHÂN TUỔI PHƯƠNG PHÁP ĐO HA- CHỈ SỐ HA PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU GIẤC NGỦ (ĐỊNH NGHĨA OSA THEO AHI) TẦN SUẤT MẮC OSA- CHỈ SỐ AHI
LOGAN 2001 41 BN THAKT

(24 nam và 17 nữ)

57.2 ±1.6

Nam 54.6±1.8

Nữ 58.3±3.0

Huyết áp 24h

HATT: Nam149.0±2.6, Nữ 150.6±3.7

HATTr: Nam 86.3±2, Nữ 83.7± 1.9

Đa kí giấc ngủ

(AHI ≥ 10)

82,9% (96% ở nam, 65% ở nữ)

AHI trung bình: 32,2±4,5 ở nam,

14,0±3,1 ở nữ

Martinez-Garcia 2006 49 BN với THAKT

(40,8% nam)

68.1±9.1 Huyết áp 24h

HATT: 152.5 ±13
HATTr: 89.2 ±8.5

Đa ký hô hấp

(AHI ≥ 10)

AHI ≥ 10: 71,4%

AHI ≥ 30: 40,8%

AHI trung bình: 26,2±19,5

Gonçalves 2007 63 BN THAKT

(21 nam, 42 nữ) và

63 BN có HA được kiểm soát (23 nam, 40 nữ)

59±7 ở 2

nhóm THAKT và THA được kiểm soát

Huyết áp 24h

HATT: 141±17 ở nhóm THAKT so với

121±10 trong nhóm THA được kiểm soát

HATTr: 84±12 trong nhóm THAKT so với

74±7 trong nhóm THA được kiểm soát

Đa ký hô hấp

(AHI ≥ 10)

71% ở nhóm THAKT so với 38% ở nhóm

THA được kiểm soát (p<0,001)

Nam giới: 86% so với 52% (p=0,016)

Nữ: 64% so với 30% (p=0,002)

Prat-Ubunama 2007 71 BN THAKT 56.0±9.9 Huyết áp tại phòng khám

SBP: 155,8±27

DBP: 88.3±15

Đa kí giấc ngủ

(AHI ≥ 5)

85% (90% ở nam, 77% ở nữ)

AHI trung bình: 24,1±24,7 (Nam 20,8; Nữ 10,8)

Lloberes 2010 62 BN THAKT

(67,3% nam giới)

59±10 Huyết áp 24h

SBP: 139,1±1,6

DBP: 80,9±1,2

Đa kí giấc ngủ

(AHI ≥ 5)

AHI ≥ 5: 90,3%

AHI ≥30: 70%

AHI trung bình: 47,8±23,4

Pedrosa 2011 125 BN THAKT

(43% nam giới)

52±10 Huyết áp 24h

SBP: 176±31

DBP: 107±19

Đa kí giấc ngủ

(AHI ≥ 15)

AHI ≥ 15: 64%

AHI ≥ 30: 32%

AHI trung bình: 18 (khoảng tứ phân vị 10–40)

Florczak 2013 204 BN với THAkháng

(123 nam, 81 nữ)

48,4±10,6 Huyết áp 24h

HATT ban ngày: 145±19, HATTr: 90±13

HATT ban đêm: 132±19, HATTr: 79±12

Đa kí giấc ngủ

(AHI ≥ 5)

AHI ≥ 5: 72,1%

AHI ≥ 30: 26,5%

Ruttanaumpawan 2009 42 BN với THAKT và

22 BN với THA được kiểm soát,phù hợp với tuổi, giới tính và BMI

56,5±1,6 trong nhóm THAKT

60,1±1,8 trong nhóm THA được kiểm soát

Huyết áp 24 giờ trong nhóm THAKT

HATT: 149±2

HATTr: 85±1

Đa kí giấc ngủ

(AHI ≥ 10)

81% ở nhóm THAKT so với 55% trong nhóm THA được kiểm soát (p = 0,03), AHI trung bình: 24,9±3,2 trong nhóm THAKT so với 16,5±2,7 trong nhóm THA được kiểm soát (p = 0,13)
Johnson 2019 664 người da đen THA (205 nam), trong đó 96

(14,5%) có THAKT

64,9±10,6 Huyết áp tại phòng khám

 

Đa ký hô hấp

(AHI ≥ 15)

25,7% tổng số bệnh nhân THA.

Bệnh nhân có THAKT mắc OSA cao gấp 1,92 lần (95% CI 1,15–3,20) so với những người có THA được kiểm soát

Abdel-Kader 2012 407 BN (229 nam,

178 nữ), phân bổ như sau:

224 BN từ dân số chung

không bệnh thận mạn

88 BN bệnh thận mạn không phụ thuộc vào lọc máu và 95 BN với bệnh thận mạn giai đoạn cuối

60.0±7.2 cho người không bệnh thận mạn 52,2±14 cho bệnh thận mạn

không phụ thuộc vào lọc máu và

53,8±14,9 cho nhóm bệnh thận mạn giai đoạn cuối

Huyết áp tại phòng khám

THAKT chiếm 4,9% trong nhóm không bệnh thận mạn, 35,2% trong nhóm bệnh thận mạn không phụ thuộc lọc máu và 22,1% trong nhóm bệnh thận mạn giai đoạn cuối.

 

Đa kí giấc ngủ

(AHI ≥ 30)

THAKT có liên quan đến OSA mức độ rất nặng

ở những người tham gia bị bệnh thận mạn giai đoạn cuối (OR hiệu chỉnh 7,1, KTC 95% 2,2–23,2), nhưng không ghi nhận ở nhóm không bệnh thận mạn (OR hiệu chỉnh 3,5, KTC 95% 0,8–15,4) hoặc nhóm bệnh thận mạn không phụ thuộc lọc máu nhóm bệnh (OR hiệu chỉnh 1,2, KTC 95% 0,4–3,7)

Bhandari 2016 Nghiên cứu hồi cứu

trong số 470.386 BN từ cơ sở dữ liệu của bảo hiểm y tế

65±11 THA và THAKT được xác định bởi

ICD theo ICD-9

HATT: 139±20

HATTr: 75±13

OSA được xác định bởi ICD theo ICD-9 hoặc bằng phân tích các BN có thở áp lực dương 9,6% trong nhóm THAKT so với 6,8% trong nhóm THA (p <0,01). Chứng ngưng thở khi ngủ phổ biến hơn đáng kể trong nhóm THAKT so với nhóm THA (OR 1,16 hiệu chỉnh,

KTC 95% 1,12–1,19)

Martinez-Garcia 2018 229 BN với THAKT (nam 63%). Trong số này,

42 (18,3%) THABT

 

58,3±9,6 ở nhóm THAKT và 58,4±8,5 ở

nhóm THABT

Huyết áp 24h

Ở nhóm THAKT: HATT: 141,6±11,2

HATTR: 82,2±10

Ở nhóm THABT: HATT: 152,4±13,9

HATTR: 85,6±11,8

Đa ký hô hấp

(AHI ≥ 5)

AHI ≥ 5

THAKT: 89,3%, THABT: 100%, (p = 0,027)

AHI ≥ 30:

THAKT: 48,6%, THABT: 64,3%, (p = 0,044)

BMI: Body Mass Index; OSA: Hội chứng ngưng thở lúc ngủ (Obstructive Sleep Apnoea); HATT: huyết áp tâm thu, HATTr: Huyết áp tâm trương, AHI: chỉ số ngưng thở- giảm tần số thở(Apnoea–Hypopnoea Index); ICD: Phân loại bệnh tật  quốc tế(International Classification of the disease)., THAKT: tăng huyết áp kháng trị, THABT: tăng huyết áp bất trị

Bảng 1Các nghiên cứu khảo sát mối liên quan giữa tăng huyết áp kháng trị hau tang huyết áp bất trị và hội chứng ngưng thở khi ngủ. Chỉ những nghiên cứu đã sử dụng bài kiểm tra giấc ngủ (hoặc đa ký hô hấp hoặc đa ký giấc ngủ) được đưa vào. Các nghiên cứu đánh giá nguy cơ ngưng thở khi ngủ dựa trên bảng câu hỏi sàng lọc thì bị loại ra.

Theo timmachhoc

Pk Đức Tín

Print Chia sẽ qua facebook bài: Điều trị tăng huyết áp kháng trị và tăng huyết áp bất trị (P1) Chia sẽ qua google bài: Điều trị tăng huyết áp kháng trị và tăng huyết áp bất trị (P1) Chia sẽ qua twitter bài: Điều trị tăng huyết áp kháng trị và tăng huyết áp bất trị (P1) Chia sẽ qua MySpace bài: Điều trị tăng huyết áp kháng trị và tăng huyết áp bất trị (P1) Chia sẽ qua LinkedIn bài: Điều trị tăng huyết áp kháng trị và tăng huyết áp bất trị (P1) Chia sẽ qua stumbleupon bài: Điều trị tăng huyết áp kháng trị và tăng huyết áp bất trị (P1) Chia sẽ qua icio bài: Điều trị tăng huyết áp kháng trị và tăng huyết áp bất trị (P1) Chia sẽ qua digg bài: Điều trị tăng huyết áp kháng trị và tăng huyết áp bất trị (P1) Chia sẽ qua yahoo bài: Điều trị tăng huyết áp kháng trị và tăng huyết áp bất trị (P1) Chia sẽ qua yahoo bài: Điều trị tăng huyết áp kháng trị và tăng huyết áp bất trị (P1) Chia sẽ qua yahoo bài: Điều trị tăng huyết áp kháng trị và tăng huyết áp bất trị (P1) Chia sẽ qua yahoo bài: Điều trị tăng huyết áp kháng trị và tăng huyết áp bất trị (P1)

Tin tức liên quan

Ý KIẾN KHÁCH HÀNG

  • Tôi Nguyễn Thanh Sang, sinh năm 1990. Từ sau khi khám và điều trị tại phòng khám Đức Tín, tôi rất biết ơn Bác Sĩ đã giải thích và chia sẽ về bệnh tình của tôi. Trong suốt thời gian điều trị tại phòng khám tôi được chắm sóc rất tận tình của nhân viên phòng khám. giờ đây bệnh tình của tôi đã được cải thiện theo chiều hướng tốt. Mong phòng khám ngày càng phát triển hơn để có thể cứu được nhiều bệnh nhân.

    Tôi thành thật cảm ơn!. sđt: 0938303275

  • Tôi Huỳnh Thị Mười, sinh năm 1940 đã khám và điều trị tại phòng khám Đức Tín. Tôi rất hài lòng về cách phục vụ và chăm sóc bệnh nhân của phòng khám. Bác Sĩ rất tận tâm giải thích và chia sẻ cùng với bẹnh nhân.

    Tôi Huỳnh Thị Mười xin thành thật cảm ơn!SĐT: 0972868746

  • Theo tôi nhận định PK Đức Tín là nơi cả gia đình tôi đặt niềm tin, hi vọng khi đến khám. Bác sĩ tận tình, chu đáo, hòa nhã với bệnh nhân. Y tá và nhân viên PK lịch sự, vui vẻ, chu đáo. PK sạch sẽ, vô trùng nên tôi rất thích. ĐT: 0949914060.

  • Bác sĩ rất tận tình, chu đáo và Y tá rất dịu dàng, lịch sự, niềm nở với tôi. Phòng khám sạch sẽ, thoải mái, lịch sự. Tôi rất thích PK Đức Tín. Mỗi khi đến khám bệnh tôi rất an tâm. ĐT: 0839820792.

  • Tôi là bệnh nhân, đã tới phòng khám Ths.Bs. Lê Đức Tín. Tôi thấy bác sĩ rất tận tâm chăm sóc bệnh nhân, giải đáp mọi thắc mắc và nhân viên rất tận tình từ nhân viên tiếp tân đến các em xét nghiệm, điều dưỡng. Phòng khám rất sạch sẽ và khang trang. Tôi rất hài lòng. ĐT: 01227880829.

Tìm kiếm
Hỗ trợ khách hàng

    Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
    Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389

TOP