Những cải thiện của kỹ thuật hình ảnh học, phẫu thuật và kết cục lâm sàng, cũng như can thiệp nội mạch trong thực hành đã làm thay đổi việc chăm sóc bệnh nhân bệnh van tim. Các nghiên cứu về bệnh sử tự nhiên dài hạn đã cung cấp thông tin về thời gian thích hợp để can thiệp van. Tuy nhiên, khoảng cách giữa kiến thức và thực hành vẫn còn tồn tại và có thể ảnh hưởng xấu đến kết cục của bệnh nhân.
Các hướng dẫn gần đây nhấn mạnh vào việc tiếp cận đa mô thức để ra quyết định đồng thuận nhằm tối ưu hóa kết cục cho bệnh nhân bị bệnh van tim, bao gồm
những người bị hẹp van động mạch chủ hoặc hở van hai lá.
Hở van hai lá vẫn còn là tổn thương van phổ biến toàn cầu. Đánh giá và quản lý bệnh nhân hở van hai lá có thể là thách thức cho các bác sĩ lâm sàng, bởi vì có nhiều nguyên nhân gây bệnh khác nhau, bản chất động học và diễn tiến âm thầm của bệnh. Hở van hai lá thường là do suy giảm chức năng hoặc bất thường giải phẫu của một hoặc nhiều thành phần của bộ máy van hai lá giúp duy trì chức năng van bình thường, gồm thất trái, cơ nhú, dây chằng, lá van và vòng van. Một mô hình tiếp cận đa mô thức là rất quan trọng cho việc chăm sóc bệnh nhân hở van hai lá có ý nghĩa lâm sàng.
Bản cập nhật mới này chứa các khuyến nghị đồng thuận của chuyên gia lâm sàng nhằm hướng dẫn cách tiếp cận bệnh nhân hở van hai lá và nhấn mạnh những nội dung sau:
- Đánh giá lâm sàng và siêu âm tim hở van hai lá
- Xác định nguyên nhân hở van hai lá (tiên phát, thứ phát hoặc kết hợp) và cơ chế gây hở van
- Xem xét các hậu quả huyết động học liên quan đến hở van hai lá
- Các chỉ định phẫu thuật hoặc can thiệp nội mạch của hở van hai lá
- Ghi nhận sự phức tạp ngày càng tăng của phẫu thuật sửa van hai lá
- Vai trò hiện tại của can thiệp nội mạch để sửa hở van hai lá
Bản cập nhật năm 2020 dựa trên “Lộ trình ra quyết định đồng thuận chuyên gia năm 2017 về điều trị hở van hai lá” đã được công bố với những thay đổi dựa trên bằng chứng mới trong lĩnh vực này. Bản cập nhật mang tính chất “cây quyết định” hơn là hướng dẫn lâm sàng, cung cấp cho các bác sĩ quy trình ra quyết định sửa van hai lá bằng cách can thiệp nội mạch ở những bệnh nhân chọn lọc bị hở van hai lá thứ phát. Hướng dẫn mới này xem xét dữ liệu từ các thử nghiệm lâm sàng gần đây về hở van hai lá thứ phát, chủ yếu là những phát hiện của các thử nghiệm MITRA-FR và COAPT.
Nghiên cứu MITRA-FR đã chọn ngẫu nhiên 304 bệnh nhân suy tim tâm thu có triệu chứng và hở van hai lá thứ phát nặng được xác định dựa trên diện tích lỗ hở van hiệu quả (EROA) > 20 mm2 và hoặc thể tích hở van > 30 ml, và phân suất tống máu thất trái từ 15% đến 40%. Các bệnh nhân này được phân bố theo tỷ lệ 1: 1 vào 2 nhóm: Nhóm can thiệp (sửa van hai lá qua da bằng MitraClip kèm điều trị nội khoa tối ưu) hoặc nhóm chứng (điều trị nội khoa tối ưu đơn thuần). Kết cục chính là tổng hợp tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào hoặc nhập viện vì suy tim sau một năm. Không có sự khác biệt giữa nhóm can thiệp so với nhóm chứng về tỷ lệ kết cục chính (tương ứng là 54,6% so với 51,3%; p = 0,53), tỷ lệ tử vong (24,3% so với 22,4%) hoặc tỷ lệ nhập viện do suy tim không theo kế hoạch (48,7% so với 47,4%). Các tác giả kết luận rằng MitraClip an toàn và hiệu quả trong việc giảm hở van nhưng không cải thiện tiên lượng (so với điều trị nội khoa tối ưu) ở bệnh nhân hở van hai lá thứ phát kèm suy tim tâm thu.
Thử nghiệm COAPT đã chọn ngẫu nhiên 614 bệnh nhân suy tim có triệu chứng và hở van hai lá thứ phát từ trung bình đến nặng hoặc nặng, được định nghĩa là EROA > 30 mm2 và hoặc thể tích hở van > 45 ml, kèm phân suất tống máu thất trái ≥ 20%. Các bệnh nhân này cũng được chia theo tỷ lệ 1: 1 vào 2 nhóm: Nhóm can thiệp (sửa van hai lá qua da bằng MitraClip kèm điều trị nội khoa tối ưu) hoặc nhóm chứng (điều trị nội khoa tối ưu đơn thuần). Kết cục chính là tất cả các trường hợp nhập viện trong vòng 2 năm theo dõi. Tỷ lệ hàng năm của tất cả các trường hợp nhập viện vì suy tim trong vòng 2 năm là 35,8% mỗi bệnh nhân-năm ở nhóm can thiệp, so với 67,9% mỗi bệnh nhân-năm trong nhóm chứng (p < 0,001). Tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào trong vòng 2 năm là 29,1% trong nhóm can thiệp so với 46,1% trong nhóm chứng (p < 0,001). Các tác giả kết luận rằng trong số bệnh nhân suy tim và hở van hai lá thứ phát trung bình đến nặng, vẫn còn triệu chứng dù đã điều trị nội khoa tối ưu, MitraClip làm giảm tỷ lệ nhập viện vì suy tim và tử vong do mọi nguyên nhân trong vòng 2 năm theo dõi so với điều trị nội khoa đơn thuần. Số bệnh nhân cần điều trị để ngăn ngừa một lần nhập viện vì suy tim trong 24 tháng là 3,1.
Hầu hết các thay đổi trong khuyến cáo lần này xoay quanh hướng dẫn về điều trị hở van hai lá thứ phát. Trong tài liệu trước đây, không có hướng dẫn cho hở van hai lá thứ phát, nhưng bản cập nhật lần này đã khắc phục điều đó. Dưới đây là tóm tắt những điểm thay đổi chính trong khuyến cáo lần này so với bảng hướng dẫn năm 2017.
Theo timmachhoc
PK Đức Tín
Tin tức liên quan
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389