Điều trị thuốc
Các thuốc uống nên được khởi trị để làm giảm nồng độ triglyceride đối với các bệnh nhân có triệu chứng và không triệu chứng.
Bảng 4 liệt kê các nhóm thuốc khác nhau. Fibrate là thuốc điều trị hàng đầu, và các thuốc khác có tác dụng điều trị hỗ trợ. Nếu fibrate không đạt mục tiêu triglyceride huyết thanh, điều trị hỗ trợ bằng axit beo omega-3. Thuốc này được xem là thuốc hỗ trợ hàng đầu do ít tác dụng phụ. Nếu cần giảm triglyceride thêm nữa, niacin hoặc axit nicotinic (vitamin B3) có thể thêm vào. Nếu nồng độ triglyceride vẫn chưa đạt mục tiêu, orlistat có thể hữu ích. Mặc dù statin mạnh như atorvastatin và rosuvastatin có thể giảm đáng kể triglyceride nhưng sử dụng statin cần dựa vào nguy cơ bệnh tim mạch do xơ vữa.
Hướng dẫn của Hội Nội Tiết Hoa Kỳ năm 2012 có một số khuyến cáo về điểu trị thuốc ở bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng:
- Fibrate được khuyến cáo sử dụng như thuốc đầu tay để giảm triglyceride ở các bệnh nhân có nguy cơ viêm tụy cấp do tăng triglyceride máu nặng.
- Ba nhóm thuốc (fibrate, niacin, axit béo n-3) đơn trị hoặc phối hợp với statin được xem xét là các chọn lựa điều trị ở các bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng.
- Statin không được sử dụng như đơn trị liệu đối với tăng triglyceride máu nặng hoặc rất nặng. Tuy nhiên, statin có thể hữu ích đối với điều trị tăng triglyceride máu trung bình khi được chỉ định để cải thiện nguy cơ tim mạch.
Fibrate
Fibrate nên được sử dụng ở các bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng. Fibrate giảm nồng độ triglyceride 30-50% và tăng HDL-C. Ở các bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng, LDL-C có thể tăng, trong khi ở bệnh nhân tăng triglyceride máu nhẹ, LDL-C có thể giảm.
Fibrate tăng oxy hóa axit béo, tăng tổng hợp LPL và giảm biểu hiện apoC-III, từ đó giảm sản xuất triglyceride từ VLDL và tăng dị hóa lipoprotein giàu triglyceride qua trung gian LPL. Các tác dụng phụ bao gồm rối loạn tiêu hóa và có thể tăng tỉ lệ sỏi mật cholesterol. Fibrate bị chống chỉ định ở các bệnh nhân bệnh gan và túi mật. Các dẫn xuất axit fibric nên được sử dụng thận trọng trong bệnh cảnh suy thận bởi vì thuốc được bài tiết qua nước tiểu và có thể làm tăng nồng độ creatinine, nhất là fenofibrate. Fenofibrate không cản trở chuyển hóa statin và có nguy cơ thấp gây bệnh cơ, nên là fibrate được ưa thích phối hợp với statin. Do ảnh hưởng lên gắn kết protein, fibrate có tương tác với warfarin, cần theo dõi cẩn thận. Ở các bệnh nhân không có đái tháo đường và có nguy cơ thấp bệnh mạch vành, gemfibrozil hoặc fenofibrate có thể được sử dụng để giảm nồng độ triglyceride huyết thanh. Tuy nhiên, ở các bệnh nhân đái tháo đường, bệnh mạch vành hoặc yếu tố nguy cơ tương đương bệnh mạch vành, fenofibrate được ưa thích phối hợp với statin để đạt mục tiêu LDL-C. Không như gemfibrozil, fenofibrate không cản trở sự glucuronide hóa statin tại gan. Gemfibrozil có thể được xem xét ở phụ nữ mang thai tăng triglyceride máu nặng có nguy cơ viêm tụy cấp bắt đầu vào tam cá nguyệt thứ hai.
Axit béo omega-3
Axit béo omega-3 chuỗi dài nguồn gốc hải sản[eicosapentaenoic acid, C20:5n-3 (EPA) và docosahexaenoic acid, C22:6n-3 (DHA)] giảm nồng độ triglyceride lúc đói và sau ăn theo kiểu phụ thuộc liều. Khoảng 3-4 g/ngày EPA và DHA giảm triglyceride máu 20-50%, HDL-C tăng nhẹ khoảng 5%. Khi giảm nồng độ triglyceride, axit béo omega-3 có thể gây tăng nồng độ LDL-C do chuyển VLDL sang LDL. Axit béo omega-3 chứa 20 – 80% EPA và DHA tùy loại chế phẩm. Tác dụng phụ của liều cao axit béo omega-3 bao gồm vị giác và ợ hơi mùi cá. Ngoài ảnh hưởng của lên nồng độ triglyceride, chế độ ăn giàu axit béo omega-3 có các kết cục dương tính lên bệnh tim mạch.
Niacin
Với liều 500-2000 mg/ngày, niacin giảm triglyceride 10-30%, tăng HDL-C 10-40%, và giảm LDL-C 5-20%. Mặc dù liều cao hơn của niacin với thời gian tác dụng trung bình được sử dụng nhưng liều tối đa của niacin tác dụng dài là 2000 mg/ngày, cần tăng dần liều từ từ theo thời gian. Niacin làm phóng thích prostaglandin D2 từ các tế bào da, gây dãn mạch. Tác dụng phụ thường gặp nhất là đỏ da, thường xảy ra ở vài liều đầu tiên. Tác dụng phụ này xảy ra 15 đến 30 phút sau khi uống và điển hình kéo dài 15 đến 30 phút. Bệnh nhân nên uống niacin sau ăn và sử dụng thuốc aspirin không có vỏ bao trước ăn để giảm đỏ da. Biến chứng nặng nhất của điều trị niacin là độc tính trên gan (phụ thuộc liều), và điều trị nên đi kèm theo dõi xét nghiệm chức năng gan. Các tác dụng phụ khác của niacin bao gồm rối loạn dung nạp glucose và tăng axit uric máu. Niacin có thể được sử dụng an toàn ở các bệnh nhân rối loạn dung nạp glucose và ở bệnh nhân đái tháo đường đang điều trị thuốc uống hoặc insulin có kiểm soát đường huyết trung bình hoặc tốt nhưng có thể chuyển rối loạn dung nạp glucose sang đái tháo đường ở một số bệnh nhân. Niacin có thể tăng nồng độ axit uric do ức chế bài tiết và có thể thúc đẩy hoặc làm nặng thêm gút nếu bệnh nhân không được điều trị allopurinol. Niacin bị chống chỉ định ở bệnh nhân loét dạ dày tiến triển.
Statin
Statin ức chếhydroxymethylglutaryl coenzyme A reductase, có tác dụng giảm triglyceride trung bình, khoảng 10-15%, phụ thuộc liều. Liều cao statin có hiệu quả mạnh như atorvastatin 80 mg hoặc rosuvastatin 40 mg, có thể hạ triglyceride huyết tương 25-30%. Đơn trị statin không nên là điều trị đầu tay để giảm nồng độ triglyceride ở bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng. Tác dụng phụ của statin xảy ra ở khoảng 5-10% bệnh nhân. Triệu chứng cơ bao gồm từ chuột rút cẳng chân đến yếu cơ ở khoảng 10% bệnh nhân, trong khi ly giải cơ vân hiếm xảy ra. Các tình trạng thúc đẩy bệnh cơ nặng bao gồm lớn tuổi, suy thận, sử dụng nhiều thuốc và bệnh cấp tính. Statin làm tăng nhẹ men gan (đến 3 lần giới hạn trên bình thường) có thể được dung nạp an toàn.
Orlistat
Orlistat, một thuốc ức chế lipase ruột, được sử dụng để giảm cân, có thể giảm nồng độ triglyceride sau ăn. Đây là phương pháp giảm hấp thu mỡ, có thể hữu ích ở bệnh nhân tăng chylomicron máu lúc đói. Orlistat được sử dụng phối hợp với fibrate. Tác dụng phụ bao gồm chướng bụng, tiêu chảy, tiêu không tự chủ và có liên quan với lượng mỡ trong chế độ ăn. Một số trường hợp tổn thương gan nặng hiếm xảy ra liên quan với orlistat.
Bảng 4. Các thuốc điều trị tăng triglyceride máu nặng
* KẾT LUẬN
Tóm lại, tình trạng tăng triglyceride máu nặng làm tăng tỉ lệ viêm tụy cấp và trong phần lớn các nghiên cứu có liên quan với nguy cơ tim mạch. Nguyên nhân của tình trạng này thường là phối hợp các nguyên nhân di truyền và thứ phát. Hầu hết các bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng cần được điều trị bằng cách phối hợp điều chỉnh lối sống và các thuốc hạ lipid máu với các cơ chế chế tác dụng khác nhau. Fibrate là điều trị hàng đầu đối với bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng. Các thuốc uống hạ triglyceride khác có thể xem xét phối hợp như axit béo omega-3, niacin, statin liều cao và orlistat. Các biện pháp can thiệp như truyền insulin hoặc thay huyết tương hữu ích ở các bệnh nhân chọn lọc hoặc trong trường hợp cấp cứu. Liệu pháp gen và các điều trị mới hơn đang hứa hẹn nhưng cần nhiều nghiên cứu để đánh giá tính an toàn và hiệu quả.
PK ĐỨC TÍN
Tin tức liên quan
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389