Y học chứng cứ cho các nhóm thuốc lợi tiểu chlorthalidone và indapamide
Ngày 22/04/2016 08:13 | Lượt xem: 3869

TÓM TẮT:

Thuốc lợi tiểu nhóm Thiazide và Thiazide-like là hòn đá tảng trong điều trị tăng huyết áp. Tuy nhiên, không giống như chlorthalidone (CTD) và indapamide (IDP), hydrochlorothiazide (HCTZ) thiếu các y học chứng cứ về giảm tỉ lệ mắc bệnh và tử suất khi so với giả dược và đối chứng khi được sử dụng đơn trị liệu. Bất chấp thực tế này, HCTZ vẫn được kê toa nhiều hơn CTD và IDP.

Chúng tôi tin rằng các hướng dẫn về tăng huyết áp nên theo tổ chức NICE (National Institute for Health and Care Excellence) và xem IDP và CTD là những nhóm thuốc lợi tiểu thiazde-like lựa chọn đầu tiên. Bài viết này sẽ tập trung vào các chứng cứ sẵn có liên quan tới HCTZ so với CTD và IDP. Chúng ta sẽ xem lại sự khác nhau về dược động học của 3 nhóm thuốc lợi tiểu cũng như dữ liệu về các thử nghiệm lâm sàng và những tác dụng phụ quan trọng.

Dù được kê toa khá phổ biến, Hydrochlorothiazide (HCTZ) vẫn thiếu các chứng cứ về giảm tỉ lệ bệnh và tử suất so với giả dược và nhóm đối chứng. Tuy nhiên, có một số lượng khá lớn các dữ liệu cho thấy chlorothalidone (CTD) và indapamide (IDP) giúp giảm tỉ lệ mắc bệnh và tử vong so với các giả dược. Bất chấp thực tế này, các hướng dẫn của cả JNC-8 và CHEP (Canadian Hypertension Education Programme) vẫn không ưu tiên CTD hoặc IDP hơn so với HCTZ. Tuy nhiên, các khuyến cáo từ hướng dẫn của NICE HTN 2011 đã làm cầu nối cho các thiếu sót này. Luận cứ cho những khuyến cáo này dựa trên sự khác biệt về dược động học giữa các cấu trúc của CTD và IDP, khác hẳn so với cấu trúc HCTZ do chúng thiếu các vòng benzothiadiazide dioxide của nhóm thiazide cổ điển. Do vậy, cụm từ “thuốc lợi tiểu thiazide like” tự bản thân nó đã không thích hợp.

 

ĐẶC TÍNH DƯỢC ĐỘNG HỌC

                                     

Thuốc lợi tiểu Thiazide và thiazide-like tới vị trí hoạt động sau khi được phóng thích bởi chất vận chuyển acid hữu cơ, tại đây chúng ức chế chất đồng vận chuyển trung tính Na+Cl nằm tại đỉnh của màng tế bào ống lượn xa. Chúng cạnh tranh với vị trí phân tử chloride trên chất vận chuyển. Bằng việc ức chế kênh Na+ nhạy cảm với amiloride ở biểu mô gây ra bài niệu natri và đưa tới mất nước đồng thời. Do ức chế khả năng của thận nhằm thay đổi độ thanh thải nước tự do dễ đưa tới hạ natri máu. Vì vậy, những thuốc thúc đẩy sự bài tiết K+, H+ và Mg2+ có thể gây kiềm chuyển hóa do hạ kali máu. Thuốc lợi tiểu thiazide cũng được biết làm tăng acid uric và tăng calci máu do giảm bài tiết calci qua đường tiểu. Ảnh hưởng này có thể gây kích thích Na+/Ca2+ vận chuyển vào mô kẽ nhiều hơn calci, làm giảm nồng độ Ca2+ nội bào và cuối cùng tăng khuynh độ tái hấp thu Ca2+ (qua những kênh  TRPV5Ca2+ chọn lọc). Ảnh hưởng lâu dài này trên sự cân bằng calci làm tăng mật độ khoáng của xương và làm giảm đáng kể sự mất xương theo tuổi cũng như nguy cơ gãy xương chậu ở người lớn tuổi.

                                  

CTD và IDP có thời gian bán hủy và hoạt động lâu hơn so với HCTZ. Hơn nữa, CTD có khả năng hạ huyết áp lưu động 24 giờ gấp đôi so với HCTZ. Ngay cả việc tăng gấp đôi liều hàng ngày để bù thời gian hoạt động ngắn cũng không cho thấy sự cải thiện trong kiểm soát huyết áp. Mặc dù IDP có khả năng hạ huyết áp tương tự như HCTZ nhưng liều của nó chỉ bằng 1/10 so với HCTZ. Điều này có thể do khả năng khóa kênh calci type L. CTD và IDP có thể gây dãn động mạch trực tiếp nên cũng giúp hạ huyết áp trong khi HCTZ dựa vào chủ yếu việc bài niệu natri để giảm huyết áp.

Mặc dù cùng hạ huyết áp giống nhau nhưng IDP cho thấy khả năng bảo tồn chức năng thận ở mức độ tốt hơn so với HCTZ và đồng thời giảm chỉ số khối thất trái đáng kể. Tương tự như vậy, CTD cũng làm giảm phì đại thất trái có ý nghĩa so với HCTZ. Ngoài việc hạ huyết áp thêm trên lâm sàng khi sử dụng CTD so với HCTZ (-10,4 so với -8,6 mmHg, p=0,001, với huyết áp tâm thu và -6,5 so với -5,1 mmHg, p=0,001, với huyết áp tâm trương), CTD còn cho thấy giảm sự biến đổi của các yếu tố tăng trưởng ß1 và ß3. Điều này giúp ngăn sự lắng đọng collagen, vì vậy làm chậm tiến trình phá hủy cơ quan đích. Cuối cùng, CTD cũng giúp tân tạo mạch máu, giảm kết tập tiểu cầu và tính thấm thành mạch. Các chức năng này có thể là do việc giảm quá trình anhydrase carbonic, kết tập tiểu cầu do catecholamine liên quan đến thuốc và sự điều hòa xuống của gen VEGF-C do CTD .

                                                                                                                                                        PK ĐỨC TÍN

 

Print Chia sẽ qua facebook bài: Y học chứng cứ cho các nhóm thuốc lợi tiểu chlorthalidone và indapamide Chia sẽ qua google bài: Y học chứng cứ cho các nhóm thuốc lợi tiểu chlorthalidone và indapamide Chia sẽ qua twitter bài: Y học chứng cứ cho các nhóm thuốc lợi tiểu chlorthalidone và indapamide Chia sẽ qua MySpace bài: Y học chứng cứ cho các nhóm thuốc lợi tiểu chlorthalidone và indapamide Chia sẽ qua LinkedIn bài: Y học chứng cứ cho các nhóm thuốc lợi tiểu chlorthalidone và indapamide Chia sẽ qua stumbleupon bài: Y học chứng cứ cho các nhóm thuốc lợi tiểu chlorthalidone và indapamide Chia sẽ qua icio bài: Y học chứng cứ cho các nhóm thuốc lợi tiểu chlorthalidone và indapamide Chia sẽ qua digg bài: Y học chứng cứ cho các nhóm thuốc lợi tiểu chlorthalidone và indapamide Chia sẽ qua yahoo bài: Y học chứng cứ cho các nhóm thuốc lợi tiểu chlorthalidone và indapamide Chia sẽ qua yahoo bài: Y học chứng cứ cho các nhóm thuốc lợi tiểu chlorthalidone và indapamide Chia sẽ qua yahoo bài: Y học chứng cứ cho các nhóm thuốc lợi tiểu chlorthalidone và indapamide Chia sẽ qua yahoo bài: Y học chứng cứ cho các nhóm thuốc lợi tiểu chlorthalidone và indapamide

Tin tức liên quan

Ý KIẾN KHÁCH HÀNG

  • Tôi Nguyễn Thanh Sang, sinh năm 1990. Từ sau khi khám và điều trị tại phòng khám Đức Tín, tôi rất biết ơn Bác Sĩ đã giải thích và chia sẽ về bệnh tình của tôi. Trong suốt thời gian điều trị tại phòng khám tôi được chắm sóc rất tận tình của nhân viên phòng khám. giờ đây bệnh tình của tôi đã được cải thiện theo chiều hướng tốt. Mong phòng khám ngày càng phát triển hơn để có thể cứu được nhiều bệnh nhân.

    Tôi thành thật cảm ơn!. sđt: 0938303275

  • Tôi Huỳnh Thị Mười, sinh năm 1940 đã khám và điều trị tại phòng khám Đức Tín. Tôi rất hài lòng về cách phục vụ và chăm sóc bệnh nhân của phòng khám. Bác Sĩ rất tận tâm giải thích và chia sẻ cùng với bẹnh nhân.

    Tôi Huỳnh Thị Mười xin thành thật cảm ơn!SĐT: 0972868746

  • Theo tôi nhận định PK Đức Tín là nơi cả gia đình tôi đặt niềm tin, hi vọng khi đến khám. Bác sĩ tận tình, chu đáo, hòa nhã với bệnh nhân. Y tá và nhân viên PK lịch sự, vui vẻ, chu đáo. PK sạch sẽ, vô trùng nên tôi rất thích. ĐT: 0949914060.

  • Bác sĩ rất tận tình, chu đáo và Y tá rất dịu dàng, lịch sự, niềm nở với tôi. Phòng khám sạch sẽ, thoải mái, lịch sự. Tôi rất thích PK Đức Tín. Mỗi khi đến khám bệnh tôi rất an tâm. ĐT: 0839820792.

  • Tôi là bệnh nhân, đã tới phòng khám Ths.Bs. Lê Đức Tín. Tôi thấy bác sĩ rất tận tâm chăm sóc bệnh nhân, giải đáp mọi thắc mắc và nhân viên rất tận tình từ nhân viên tiếp tân đến các em xét nghiệm, điều dưỡng. Phòng khám rất sạch sẽ và khang trang. Tôi rất hài lòng. ĐT: 01227880829.

Tìm kiếm
Hỗ trợ khách hàng

    Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
    Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389

TOP