1. ĐẠI CƯƠNG
Trong những thập niên qua, suy tim phân suất tống máu bảo tồn (heart failure with preserved ejection fraction – suy tim PSTMBT) đã thu hút được nhiều quan tâm của cộng đồng tim mạch.
Khoảng một nửa bệnh nhân suy tim có phân suất tống máu thất trái (ejection fraction – EF) bình thường. Bệnh suất và tử suất của suy tim phân suất tống máu bảo tồn tương tự suy tim phân suất tống máu giảm (heart failure with reduced ejection fraction - suy tim PSTMG) nhưng các biện pháp điều trị hiệu quả chưa được xác định. Tỉ lệ hiện mắc của suy tim PSTMBT so với suy tim PSTMG đang gia tăng với tốc độ cảnh báo khoảng 1% mỗi năm, do đó có thể đưa suy tim PSTMBT trở thành kiểu hình suy tim phổ biến nhất trong những thập niên sắp tới. Trong khi nhiều nghiên cứu trước đây tập trung vào tầm quan trọng của rối loạn chức năng tâm trương trong sinh lý bệnh của suy tim PSTMBT, các nghiên cứu gần đây đã phát hiện nhiều bất thường của chức năng tim mạch không liên quan tâm trương. Chẩn đoán suy tim PSTMBT thường là một thử thách và phụ thuộc vào đánh giá lâm sàng kỹ lưỡng, siêu âm tim Doppler, và đánh giá huyết động xâm lấn. Bài tổng quan này nhìn nhận lại các cơ chế bệnh sinh quan trọng, tiếp cận chẩn đoán và các biện pháp điều trị qua các thử nghiệm lâm sàng, khuyến cáo trong các hướng dẫn thực hành cũng như các biện pháp điều trị trong tương lai.
2. THUẬT NGỮ VÀ ĐỊNH NGHĨA
Do sự nhận biết về tầm quan trọng của suy tim PSTMBT như một vấn đề sức khỏe cộng đồng đang gia tăng nên sự tranh luận về thuật ngữ thích hợp sử dụng cho suy tim PSTMBT cũng gia tăng. Hầu hết các nghiên cứu trước đây đề cập suy tim PSTMBT như suy tim tâm trương, một thuật ngữ cho thấy rối loạn chức năng tâm trương là cơ chế sinh lý bệnh chính gây ra rối loạn huyết động và triệu chứng ở những bệnh nhân này. Tương tự, suy tim tâm thu thường được sử dụng để đề cập các bệnh nhân suy tim với phân suất tống máu giảm. Tuy nhiên, vì rối loạn chức năng tâm trương không chỉ xảy ra ở suy tim PSTMBT mà cũng xảy ra ở các bệnh nhân suy tim PSTMG nên thuật ngữ suy tim tâm trương được thay bằng suy tim phân suất tống máu bảo tồn hoặc suy tim phân suất tống máu bình thường (heart failure with normal ejection fraction – HFnEF). Thuật ngữ suy tim PSTMBT đã được sử dụng trong các hướng dẫn suy tim hiện tại và do đó được sử dụng trong bài tổng quan này. Phân suất tống máu (EF) là một biến số liên tục với phân phối tương đối chuẩn trong dân số, và giá trị ngưỡng để định nghĩa EF bình thường so với EF giảm còn tranh cãi. Mặc dù các hướng dẫn sử dụng EF lớn hơn 50% là suy tim PSTMBT nhưng tiếp cận với các bệnh nhân có EF giới hạn (40% đến 50%) làm phức tạp sự phân loại . Suy tim PSTMBT và suy tim PSTMG là các dạng suy tim khác nhau hay là một phần của tiến trình suy tim vẫn chưa rõ mặc dù các kiểu tái cấu trúc buồng tim và tế bào cơ tim khác nhau cũng như đáp ứng khác nhau với các biện pháp điều trị gợi ý rằng chúng là hai quá trình bệnh lý khác nhau. Bảng 1 trình bày định nghĩa và mô tả ngắn gọn về suy tim phân suất tống máu bảo tồn theo hướng dẫn của Hội Tim Mạch Hoa Kỳ và Trường Môn Tim Mạch Hoa Kỳ năm 2013.
Bảng 1 . Định nghĩa suy tim PSTMBT và suy tim PSTMG
3. DỊCH TỄ HỌC
Nhiều nghiên cứu dịch tễ đã xác định tỉ lệ hiện mắc của suy tim PSTMBT ở các dân số suy tim khác nhau và báo cáo tỉ lệ hiện mắc 50 đến 55%. Tỉ lệ hiện mắc của suy tim PSTMBT ở các bệnh nhân nhập viện vì suy tim đã gia tăng đáng kể trong các thập niên qua. Tỉ lệ hiện mắc suy tim tăng theo tuổi và tương tự ở nam và nữ. Tỉ lệ suy tim PSTMG tăng theo tuổi và phổ biến ở nam hơn nữ ở bất kỳ tuổi nào, trong khi tỉ lệ suy tim PSTMBT tăng đáng kể hơn theo tuổi so với suy tim PSTMG và phổ biến hơn ở nữ so với nam ở bất kỳ tuổi nào.
Hình 1 . Tỉ lệ hiện mắc và số nhập viện của suy tim PSTMBT qua các năm
Hình 2 . Tỉ lệ suy tim phân suất tống máu giảm và suy tim phân suất tống máu bảo tồn theo tuổi và giới. A, Tỉ lệ suy tim theo tuổi. B, Tỉ lệ suy tim theo giới. C, Tỉ lệ suy tim PSTMBT theo tuổi. D, Tỉ lệ suy tim PSTMG theo tuổi.
Tuổi
Mặc dù bệnh tim mạch có thể góp phần gây rối loạn chức năng tâm trương ở người lớn tuổi nhưng các nghiên cứu cũng cho thấy rằng chức năng tâm trương giảm theo quá trình lão hóa bình thường. Tốc độ thư giãn thất trái giảm theo tuổi ở nam và nữ, thậm chí khi không có bệnh tim mạch. Độ cứng của mạch máu, chức năng tâm thu và chức năng tâm trương thất trái gia tăng theo tuổi. Tăng độ cứng mạch máu cho thấy có liên quan với tình trạng không dung nạp khi gắng sức ở các bệnh nhân suy tim PSTMBT. Các thay đổi cấu trúc tim theo tuổi (như tăng kích thước tế bào cơ tim, tăng chết tế bào theo chương trình với giảm số lượng tế bào cơ tim, thay đổi điều hòa yếu tố tăng trưởng, tích tụ collagen khu trú) và các thay đổi chức năng ở mức độ tế bào bao gồm giảm đáp ứng của thụ thể beta, phức bộ ghép kích thích – co cơ, và thay đổi các protein kết hợp canxi có thể góp phần vào rối loạn chức năng tâm trương theo quá trình lão hóa bình thường. Một số nghiên cứu cho thấy sự tập luyện dẻo dai duy trì kéo dài có thể bảo tồn sự chun giãn thất trái theo tuổi và giúp phòng ngừa suy tim ở người lớn tuổi.
Giới tính
Cùng với tuổi, giới tính nữ là một yếu tố nguy cơ mạnh của suy tim PSTMBT. Thực ra, dường như có sự tương tác quan trọng giữa tuổi – giới tính, như tỉ lệ suy tim PSTMBT tăng đáng kể theo tuổi ở nữ hơn suy tim PSTMG. Lý do nữ ưu thế hơn trong suy tim PSTMBT chưa hoàn toàn rõ ràng, nhưng nữ có độ cứng mạch máu, độ cứng tâm thu và tâm trương thất trái nhiều hơn nam, và độ cứng của mạch máu và tâm thất tăng đáng kể theo tuổi ở nữ. Các thay đổi chức năng mạch vành ở nữ có thể đóng vai trò trong quá trình sinh lý bệnh của suy tim PSTMBT.
Tử suất
Hầu hết các nghiên cứu lớn hiện tại đã cho thấy tử vong do mọi nguyên nhân đối với suy tim PSTMBT tương tự với suy tim PSTMG. Đường cong sống còn từ hai nghiên cứu lớn so sánh tỉ lệ sống còn ở các bệnh nhân suy tim với EF giảm hoặc bảo tồn được trình bày ở hình 3. Sự khác biệt về tỉ lệ sống còn giữa hai dạng suy tim được báo cáo dao động nhưng nhìn chung ít khác nhau. Mặc dù tỉ lệ sống còn đã cải thiện theo thời gian đối với các bệnh nhân suy tim PSTMG, nhưng không thay đổi đối với suy tim PSTMBT. Trong nghiên cứu DIG bao gồm các bệnh nhân suy tim với EF bình thường và giảm, và trong một nghiên cứu khảo sát suy tim trong cộng đồng, so với các bệnh nhân EF giảm, các bệnh nhân suy tim với EF bảo tồn thường tử vong vì các nguyên nhân không do tim mạch, trong khi tử vong do bệnh mạch vành ít gặp hơn.
Hình 3 . A, B,Đường cong sống còn Kaplan-Meier so sánh tỉ lệ sống còn ở các bệnh nhân suy tim PSTMBT và suy tim PSTMG.
Hình 4. Đường cong sống còn của các bệnh nhân suy tim PSTMG cải thiện theo thời gian trong nghiên cứu ở Olmsted County, Minnesota (A), nhưng không cải thiện ở các bệnh nhân suy tim PSTMBT (B) .
Hình 5 . Nguyên nhân tử vong của các bệnh nhân suy tim PSTMBT và suy tim PSTMG
Bệnh suất
Các bệnh nhân suy tim PSTMBT có bệnh suất tương đương các bệnh nhân suy tim PSTMG với sự khác biệt tối thiểu về tỉ lệ tái nhập viện do suy tim. Một nghiên cứu cộng đồng khảo sát suy tim đã báo cáo tỉ lệ nhập viện sau khi chẩn đoán suy tim. Trong khi sự tỉ lệ nhập viện do mọi nguyên nhân cao và gần tương đương ở các bệnh nhân EF bảo tồn hoặc giảm thì tỉ lệ nhập viện do suy tim chiếm phần nhỏ (16,5%). Các dữ liệu này nhấn mạnh suy tim là một bệnh của người lớn tuổi, trong đó các bệnh đồng mắc ảnh hưởng tử suất và bệnh suất. Tỉ lệ suy giảm chức năng tiến triển sau nhập viện vì suy tim cũng tương tự ở các bệnh nhân EF bảo tồn hoặc giảm.
Theo timmachhoc.vn
PK ĐỨC TÍN
Tin tức liên quan
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389