Đột tử tim do tái cực sớm từ ca lâm sàng đến tổng quan (P.2)
Ngày 11/08/2016 07:55 | Lượt xem: 2351

ĐỊNH NGHĨA- Định nghĩa của quá trình tái cực sớm trên điện tâm đồ (ECG) được dựa trên những nhận định ECG được xác định ró (bảng 1):

● Sự lệch hướng dương tính được xác định hình dạng rõ hoặc chẽ đôi (notch) ngay lập tức sau một phức hợp QRS dương vào lúc khởi đầu của đoạn ST.

● Sự hiện diện líu díu (slurring) ở phần cuối của phức hợp QRS (khi sóng J hoặc từ sóng J chênh lên hay chênh lên của điểm J có thể được ẩn trong phần cuối của phức hợp QRS, gây ra líu díu của phần cuối phức hợp QRS) (hinh10) .

Hình 10.Tái cực sớm ở 12 chuyển đạo ECG

Hầu hết các tài liệu định nghĩa ER như đang có mặt trên điện tâm đồ khi có điểm J chênh lên ≥ 0.1 mV ở hai chuyển đạo liên tiếp với hoặc hình thái líu díu hoặc chẽ đôi.

Phân loại điện tâm đồ

Dựa trên các số liệu kèm nguy cơ loạn nhịp tim với phân bố không gian của ER, một hệ thống phân loại đã được đề xuất :

● Type 1 gắn liền với ER ở các chuyển đạo bên trước tim (lateral precordial leads). Hình thức này thường gặp ở những vận động viên nam khỏe mạnh và được cho phần lớn là lành tính.

● Type 2 liên kết với ER ở các  chuyển đạo dưới hay bên dưới và được kết hợp với một mức độ nguy cơ vừa phải.

● Type 3 liên kết với ER trên toàn bộ ở các chuyển đạo dưới, bên và trước tim phải và dường như có liên quan với nguy cơ tương đối cao nhất, mặc dù nguy cơ tuyệt đối của đột tử vẫn còn nhỏ. Ở hai trường hợp trên có thể xếp vào type 3.

● Type 4, hoặc hội chứng Brugada, được ghi nhận bằng chênh lên của sóng J/điểm J ở các chuyền đạo trước tim phải. Đây là một thể tái cực sớm người ta mới xếp vào đây.

Trong khi hệ thống phân loại này có vẻ đơn giản hóa việc phân loại của các mô hình điện tâm đồ, đã bị chỉ trích do chất nền sinh lý bệnh nói chúng được cho là gây tranh cãi qua tất cả 4 type.

ER ẩn dấu - Các mẫu ER không phải luôn luôn được xác định trên ECG thông thường do tính chất không liên tục của ER. Như một ví dụ, trong số 542 người có ER cơ bản đã được thực hiện do ECG nhắc lại sau 5 năm, ER (≥0.1 mV) không quan sát thấy ở khoảng 20%. Không đánh giá có hệ thống được thực hiện để báo cáo tỷ lệ ER ẩn giấu trong dân số nói chung, cũng như tầm quan trọng lâm sàng, nếu có, của ER giấu vẫn chưa rõ ràng. Trong hai trường hợp lâm sàng trên, qua các lần làm ECG theo dõi cũng cho thấy có lúc có ER lúc không. Sau sự cố rung thất ECG đều biểu hiện rõ tái cực sớm. ECG tiếp theo không còn thấy tái cực sớm nữa.

Mẫu ER đối lại với hội chứng ER

Như đã nói ở trên, ER là một phát hiện điện tâm đồ. Hai thuật ngữ, được phân biệt bằng có hay không có loạn nhịp tim có triệu chứng, đã được sử dụng để mô tả bệnh nhân phát hiện ECG:

● Các mẫu ER mô tả các bệnh nhân có ECG thích hợp trong trường hợp không có triệu chứng loạn nhịp tim.

● Hội chứng ER áp dụng cho các bệnh nhân có cả ECG thích hợp và loạn nhịp tim có triệu chứng.

Người có một trong hai mẫu ER hoặc hội chứng ER có thể có kết quả giống hệt nhau trên ECG bề mặt. Tuy nhiên, sự hiện diện đơn thuần của mẫu ER trên ECG không nên dẫn đến một sự phân loại của hội chứng ER trong trường hợp không có triệu chứng hoặc VF được chứng minh bằng tư liệu.

Hiếm khi, ER có thể liên quan với các rối loạn loạn nhịp rung thất vô căn tiên phát (VF) khi không có bệnh tim thực thể. Với sự phổ biến của mẫu ER trong dân số nói chung và tỷ lệ rất thấp của VF vô căn, chẩn đoán VF vô căn do ER ác tính (malignant ER) là một chẩn đoán loại trừ. Trong ca lâm sàng trên đều là hội chứng tái cực sớm vì bắt được nhịp nhanh thất và rung thất và không xác định được bệnh tim thực thể nào.

Tính phổ biến của tái cực sớm và tỷ lệ rung thất vô căn

Tính phổ biến- Một số nghiên cứu dân số ước tính sự phổ biến của ER từ 5 đến 13% số người.

● Trong một nghiên cứu 10.864 đối tượng tuổi trung niên ở Phần Lan (52% nam giới, tuổi trung bình là 44 ± 8 năm), tỷ lệ ER là 5,8% (3,5% ở các chuyển đạo dưới và 2,4% ở các chuyển đạo bên và ở cả hai 0,1%).

● Trong một dân số dựa trên trường hợp nghiên cứu đoàn hệ các cá nhân người gốc trung tâm châu Âu (central-European descent) (n = 6213, tầm tuổi khoảng 35 đến 74 năm), tỷ lệ ER là 13,1% (4,4% ở chuyển đạo trước bên và 7,6% ở chuyển đạo dưới, 1% ở cả hai).

● Trong nghiên cứu Cardia (Phát triển rủi ro động mạch vành ở người lớn trẻ tuổi), 5069 người tham gia (tuổi trung bình 25, 45% nam, 52% da đen), 941 người (18,6%) có ER trên ECG cơ bản. Sau 20 năm, có 50% không còn được theo dõi; tuy nhiên, chỉ có 119 trong số 2505 người (4,8%) của những người tham gia còn lại vẫn có bằng chứng của ER.

Mẫu tái cực sớm thừa kế

Các mẫu ER có thể rời rạc (sporadic) hoặc được thừa kế, mặc dù người thân thế hệ đầu tiên của người có mẫu ER có biểu hiện cao hơn gấp 2 đến 3 lần cũng có mẫu ER trên ECG. Trong khi phần lớn các ER có khả năng rời rạc, ER gia đình dường như được di truyền ở kiểu nhiễm sắc thể trội thường.

● Trong một nghiên cứu đánh giá những người tham gia trong nghiên cứu Framingham Heart (n = 3995) và Health 2000 Survey (n = 5489), anh chị em ruột của cá nhân có mẫu ER đã tăng độ chênh không tương ứng của các mẫu ER trên ECG của họ (tỷ số chênh của họ [OR] 2.22, 95% CI 1,01-4,85), cho thấy di truyền của mẫu ER trong dân số nói chung.

● Trong một nghiên cứu 505 gia đình, cá nhân có ít nhất một cha mẹ đã có mẫu ER có nguy cơ 2,5 lần cho mẫu ER. Sự chuyển giao gia đình xuất hiện thường xuyên hơn khi người mẹ bị ảnh hưởng (3,8 lần so với 1,8 lần). Hệ số di truyền cũng cao hơn khi ER ở các chuyển đạo dưới hoặc có một hình thái chẽ đôi.

● Trong một nghiên cứu bốn gia đình bị ảnh hưởng do hội chứng ER có sự kết hợp 22 ca đột tử tim, mẫu ER đã có mặt ở 36% các thành viên trong gia đình (61 trong số 171), với chuyển giao trong một mẫu phù hợp với di truyền nhiễm sắc thể trội. Chúng tôi có chưa có điều kiện kiểm tra các người thân của các trường hợp lâm sàng trên.

Nguy cơ loạn nhịp tim- Nhận thức ER là một phát hiện lành tính không có ý nghĩa lâm sàng thay đổi như trường hợp báo cáo, nghiên cứu bệnh chứng, và các nghiên cứu dân số thành lập một liên kết giữa sự có mặt của ER và tăng nguy cơ tử vong và loạn nhịp tim trong rung thất vô căn riêng biệt (VF).

● Nghiên cứu dân số lớn đã cho thấy sự có mặt của ER ở các chuyển đạo dưới trên ECG bề mặt được liên kết với một nguy cơ cao tử vong do nguyên nhân tim mạch cũng như tử suất do tất cả các nguyên nhân.

● Trong một nghiên cứu bệnh chứng so với 206 đối tượng VF tự phát với 412 người khỏe mạnh, ER là phổ biến hơn ở những người có VF tự phát (31 so với 5%) và ER lớn hơn độ lớn ở phạm vi các đối tượng trường hợp so với nhóm đối chứng ( điểm J chênh lên, 2.0 so với 1.2 mm). Bệnh nhân có VF tự phát người có ER cũng có nhiều khả năng xẩy ra ngất hoặc ngừng tim khi ngủ hơn là những người không có ER. Trong một theo dõi trung bình 61 ± 50 tháng, giám sát ICD cho thấy một tỷ lệ cao hơn trong các trường hợp VF tái phát ởcác đối tượng cóER hơn ở những người không có (tỷ lệ nguy cơ, 2.1; khoảng tin cậy 95%, 1,2-3,5).

Mặc dù ER là khá phổ biến trong dân số nói chung, VF tự phát là hiếm. Trong một báo cáo, trong đó ước tính tỷ lệ VF vô căn, nguy cơ ước tính của phát triển VF tự phát trong cá nhân trẻ hơn 45 tuổi là 3 trong 100.000. Nguy cơ tăng đến 11 trong 100.000 khi J sóng (hình 11) đã có mặt. Mặc dù ER tăng nguy cơ tương đối của đột tử do tim (SCD), nguy cơ tuyệt đối là rất thấp. Trong một phân tích gộp, nguy cơ tương đối của tử vong do loạn nhịp tim ở những người có mẫu ER là 1,70 (95% CI 1,19-2,42), và các nguy cơ tuyệt đối ước tính cho tử vong loạn nhịp tim là 70 trên 100.000 người-năm [26]. Vì vậy việc xác định ngẫu nhiên của ER không nên được hiểu như là một marker có nguy cơ cao tử vong do loạn nhịp tim với tỷ lệ chênh tương đối thấp của SCD dựa trên cơ sở ER đơn thuần.

Hình 11.Sóng J (J-wave) tái cực sớm trên điện tâm đồ được phóng to.

Các vận động viên với tái cực sớm- Cho dù các vận động viên có một tỷ lệ tăng của ER và tăng nguy cơ tử vong là loạn nhịp tim gây tranh cãi.

● Tỷ lệ điểm J tăng cao trong 121 vận động viên trẻ đã được báo cáo ở mức 22%, một tỷ lệ nhiễm cao hơn so với trong dân số chung. Tuy nhiên, một tỷ lệ ER lên đến 44% cũng đã được báo cáo trong các vận động.

          Các báo cáo tỷ lệ cao hơn của ER trong các vận động viên có thể liên quan đến sự cân bằng sinh lý trong trương lực tự trị đối giao cảm và quy định của nó về hoạt động điện. Trong vận động viên, một sự tương quan giữa độ cao điểm J và độ dày vách liên thất đã được báo cáo và có thể đề nghị một vai trò cơ chế của phì đại do tập luyện làm cơ sở cho J điểm cao.

● Một nghiên cứu trường hợp có đối chứng đã báo cáo ER là cao bốn lần phổ biến ở những vận động viên có tiền sử bị ngừng tim (n = 21) so với các vận động viên khỏe mạnh (n = 365). Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, tỷ lệ ER trong nhóm kiểm soát của các vận động viên là thấp hơn đáng kể (7,9 phần trăm) so với các nghiên cứu khác. Sự hiện diện của ER tăng xác suất tử vong loạn nhịp từ khoảng 2/ triệu đến 3,5 / triệu trong số này của các vận động viên thi đấu.

● Trong một nghiên cứu thuần tập 704 vận động viên ưu tú ở Ý không có bệnh tim mạch rõ ràng, mẫu tái cực sớm có mặt ở 102 người (14%). Trong một theo dõi trung bình sáu năm, không ai trong số các vận động viên có tái cực sớm phát triển loạn nhịp thất hoặc đột tử tim.

● Trong các vận động viên trẻ, khỏe mạnh ở Phần Lan (n = 62) và Hoa Kỳ (n = 503), đoạn ST tăng dần là hình thức phổ biến của ER, nhưng đã không liên kết với tăng nguy cơ loạn nhịp tim. Trong số các vận động viên ER, tất cả (96%) người Phần Lan ngoại trừ 1 và 85% các vận động viên Mỹ đã có một ST biến đổi tăng dần sau ER.

          Đáng chú ý, các kết hợp của ER với nguy cơ loạn nhịp tim thường là lúc nghỉ ngơi hoặc trong lúc ngủ và không phải trong quá trình hoạt động thể lực khi điểm J chênh lên được giảm đi đáng kể hoặc bị loại bỏ.

Theo timmachhoc.vn

PK Đức Tín

Print Chia sẽ qua facebook bài: Đột tử tim do tái cực sớm từ ca lâm sàng đến tổng quan (P.2) Chia sẽ qua google bài: Đột tử tim do tái cực sớm từ ca lâm sàng đến tổng quan (P.2) Chia sẽ qua twitter bài: Đột tử tim do tái cực sớm từ ca lâm sàng đến tổng quan (P.2) Chia sẽ qua MySpace bài: Đột tử tim do tái cực sớm từ ca lâm sàng đến tổng quan (P.2) Chia sẽ qua LinkedIn bài: Đột tử tim do tái cực sớm từ ca lâm sàng đến tổng quan (P.2) Chia sẽ qua stumbleupon bài: Đột tử tim do tái cực sớm từ ca lâm sàng đến tổng quan (P.2) Chia sẽ qua icio bài: Đột tử tim do tái cực sớm từ ca lâm sàng đến tổng quan (P.2) Chia sẽ qua digg bài: Đột tử tim do tái cực sớm từ ca lâm sàng đến tổng quan (P.2) Chia sẽ qua yahoo bài: Đột tử tim do tái cực sớm từ ca lâm sàng đến tổng quan (P.2) Chia sẽ qua yahoo bài: Đột tử tim do tái cực sớm từ ca lâm sàng đến tổng quan (P.2) Chia sẽ qua yahoo bài: Đột tử tim do tái cực sớm từ ca lâm sàng đến tổng quan (P.2) Chia sẽ qua yahoo bài: Đột tử tim do tái cực sớm từ ca lâm sàng đến tổng quan (P.2)

Tin tức liên quan

Ý KIẾN KHÁCH HÀNG

  • Tôi Nguyễn Thanh Sang, sinh năm 1990. Từ sau khi khám và điều trị tại phòng khám Đức Tín, tôi rất biết ơn Bác Sĩ đã giải thích và chia sẽ về bệnh tình của tôi. Trong suốt thời gian điều trị tại phòng khám tôi được chắm sóc rất tận tình của nhân viên phòng khám. giờ đây bệnh tình của tôi đã được cải thiện theo chiều hướng tốt. Mong phòng khám ngày càng phát triển hơn để có thể cứu được nhiều bệnh nhân.

    Tôi thành thật cảm ơn!. sđt: 0938303275

  • Tôi Huỳnh Thị Mười, sinh năm 1940 đã khám và điều trị tại phòng khám Đức Tín. Tôi rất hài lòng về cách phục vụ và chăm sóc bệnh nhân của phòng khám. Bác Sĩ rất tận tâm giải thích và chia sẻ cùng với bẹnh nhân.

    Tôi Huỳnh Thị Mười xin thành thật cảm ơn!SĐT: 0972868746

  • Theo tôi nhận định PK Đức Tín là nơi cả gia đình tôi đặt niềm tin, hi vọng khi đến khám. Bác sĩ tận tình, chu đáo, hòa nhã với bệnh nhân. Y tá và nhân viên PK lịch sự, vui vẻ, chu đáo. PK sạch sẽ, vô trùng nên tôi rất thích. ĐT: 0949914060.

  • Bác sĩ rất tận tình, chu đáo và Y tá rất dịu dàng, lịch sự, niềm nở với tôi. Phòng khám sạch sẽ, thoải mái, lịch sự. Tôi rất thích PK Đức Tín. Mỗi khi đến khám bệnh tôi rất an tâm. ĐT: 0839820792.

  • Tôi là bệnh nhân, đã tới phòng khám Ths.Bs. Lê Đức Tín. Tôi thấy bác sĩ rất tận tâm chăm sóc bệnh nhân, giải đáp mọi thắc mắc và nhân viên rất tận tình từ nhân viên tiếp tân đến các em xét nghiệm, điều dưỡng. Phòng khám rất sạch sẽ và khang trang. Tôi rất hài lòng. ĐT: 01227880829.

Tìm kiếm
Hỗ trợ khách hàng

    Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
    Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389

TOP