Chẩn đoán viêm cơ tim phải được thực hiện trên cơ sở mô học theo tiêu chuẩn Dallas, do vậy, sinh thiết cơ tim là tiêu chuẩn vàng cho chẩn đoán viêm cơ tim và là nền tảng để có chế độ điều trị thích hợp.
Tuy nhiên, tính nhạy cảm của kỹ thuật sinh thiết thấp do bản chất của sang thương viêm là từng mảng và các nguy cơ nghiêm trọng của kỹ thuật sinh thiết nên chỉ định sinh thiết cơ tim bị hạn chế và chẩn đoán viêm cơ tim dựa vào kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh CMR và chụp động mạch vành.
1 Cộng hưởng từ tim CMR có khả năng thể hiện các đặc tính mô học của cơ tim ( dựa vào số lượng nước và động học của chất đối quang): thâm nhiễm, hoại tử, xơ hóa và phù nề. Tuy nhiên, CMR có vài hạn chế do tính khó khăn về kỹ thuật để có được hình ảnh tốt ở các bệnh nhân bị rối loạn nhịp và tính an toàn có liên quan đến các thiết bị tạo nhịp. Chẩn đoán viêm cơ tim dựa trên CMR khi có ít nhất 2 trong các hình ảnh: một vùng gia tăng gadolinium muộn ( phù hợp với tổn thương cơ tim và sẹo) mà không do thiếu máu cơ tim cục bộ ( loại trừ lớp dưới nội tâm mạc và/hoặc các vùng cơ tim phân bố không phù hợp với vùng tưới máu của mạch vành), tăng tín hiệu toàn bộ hoặc khu trú trong hình ảnh tăng T2 ( chỉ định tình trạng phù nề mô), gia tăng toàn bộ gadolinium sớm ( phù hợp với tăng lượng máu ( hyperemia). CMR cho phép phát hiện các bệnh cơ tim cấu trúc, bao gồm viêm cơ tim, đến 30% các bệnh nhân bị rối loạn nhịp thất(26). Các nghiên cứu lâm sàng sử dụng CMR trong chẩn đoán viêm cơ tim ở các bệnh nhân bị rối loạn nhịp hoặc suy tim cho thấy độ nhạy cảm và độ đặc hiệu của CMR hơn 90%(27). CMR có khả năng phân biệt quá trình viêm đang hoạt động với quá trình viêm đang hồi phục ở các bệnh nhân bị viêm cơ tim mạn. De Cobelli và cộng sự đã sử dụng CMR và sinh thiết cơ tim để nghiên cứu các bệnh nhân bị viêm cơ tim mạn. Các vùng tăng T2 được tim thấy ở 36% bệnh nhân bị viêm cơ tim mạn hoạt động, nhưng không có ở bệnh nhân bị viêm cơ tim tới hạn ( borderline myocarditis). Các vùng tăng gadolinium muộn được tìm thấy ở 84% bệnh nhân bị viêm cơ tim hoạt động và 44% bệnh nhân bị viêm cơ tim tới hạn. Dạng giữa thành của vùng tăng muộn thường được tìm thấy ở các bệnh nhân bị viêm cơ tim hoạt động và tới hạn, ngược lại, dạng dưới thượng mô cơ tim chỉ gặp ở các bệnh nhân bị viêm cơ tim hoạt động. Như vậy, CMR là phương tiện dùng để nghiên cứu chẩn đoán viêm cơ tim, đặc biệt ở các bệnh nhân bị rối loạn nhịp thất và là phương tiện theo dõi không xâm lấn quan trọng. Hơn nữa, CMR còn dùng để hướng dẫn vị trí thực hiện sinh thiết cơ tim.
2. Sinh thiết cơ tim ( endomyocardial biopsy EMB): là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán viêm cơ tim vì nó cho phép nhận biết các đặc điểm của quá trình viêm, đánh giá tình trạng hoại tử và xơ hóa cơ tim cũng như phát hiện các genomes của các siêu vi trùng. Do các sang thương viêm là từng mảng, nên dễ sai lầm khi lấy mẫu, dẫn đến độ nhạy cảm của EMB thấp từ 38% đến 65%. Hơn nữa, EMB có các nguy cơ nghiêm trọng như tử vong (0.05%), thủng tim và chèn ép tim cấp ( 0.3% - 0.5%), thuyên tắc huyết khối, rối loạn nhịp, tổn thương van 3 lá…nên chỉ định EMB bị hạn chế. Theo AHA/ACC/ESC 2007, có 14 bệnh cảnh lâm sàng mà EMB được chỉ định với giá trị chẩn đoán, tiên lượng và điều trị, bao gồm tình huống rối loạn nhịp nhanh thất kéo dài và/hoặc đe dọa tính mạng và các rối loạn dẫn truyền nhĩ thất độ II và độ III.
Theo timmachhoc.vn
PK Đức Tín
Tin tức liên quan
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389