Nghiên cứu có qui mô lớn đầu tiên đánh giá hiệu quả của trimetazidine trong điều trị đau thắt ngực ổn định là TRIMPOL II(Trimetazidine in Poland II). Đối tượng nghiên cứu gồm 426 người có đau thắt ngực ổn định xuất hiện khi gắng sức, bệnh mạch vành đã được xác định (hẹp hơn 70% một động mạch vành lớn ở thượng tâm mạc trên phim chụp mạch vành cản quang hoặc tiền sử nhồi máu cơ tim) và đang được điều trị bằng thuốc chẹn bêta metoprolol.
Bệnh nhân được phân một cách ngẫu nhiên, mù đôi cho dùng trimetazidine hoặc placebo trong 12 tuần. Lúc mới vào nghiên cứu và sau 12 tuần điều trị tất cả bệnh nhân được cho làm nghiệm pháp gắng sức trên thảm lăn theo qui trình Bruce. Tiêu chí đánh giá chính là thay đổi thời gian đến khi xuất hiện ST chênh xuống 1 mm trên điện tim gắng sức (tuần 12 so với lúc mới vào nghiên cứu). Kết quả TRIMPOL II cho thấy sau 12 tuần thời gian đến khi ST chênh xuống 1 mm trên điện tim gắng sức của nhóm trimetazidine dài hơn có ý nghĩa so với nhóm placebo. Các tác giả còn ghi nhận sau 12 tuần tổng thời gian gắng sức, thời gian đến khi xuất hiện đau thắt ngực khi gắng sức và tổng công thực hiện được (tính bằng MET) của nhóm trimetazidine tăng nhiều hơn có ý nghĩa so với nhóm placebo (bảng 1). Trên lâm sàng, số cơn đau thắt ngực mỗi tuần cũng như số lần dùng nitrate để cắt cơn đau thắt ngực mỗi tuần của nhóm trimetazidine giảm nhiều hơn có ý nghĩa so với nhóm placebo (bảng 1).
Bảng 1: Thay đổi các chỉ số điện tim gắng sức và lâm sàng sau 12 tuần điều trị .
Ghi chú:TMZ = trimetazidine; PL = placebo; *p so sánh TMZ với PL ở tuần 12.
Trong số những người bệnh mạch vành có một nhóm đối tượng rất khó điều trị để kiểm soát triệu chứng đau thắt ngực. Đó là những người có giải phẫu học các động mạch vành không phù hợp cho việc tái tưới máu bằng cả can thiệp qua da lẫn phẫu thuật bắc cầu (thường là những người bệnh đái tháo đường, một bệnh có đặc điểm là gây tổn thương lan tỏa hệ mạch vành). Gần đây Ribeiro và cộng sự đã thực hiện một thử nghiệm lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên, mù đôi, kiểu bắt chéo để đánh giá lợi ích của trimetazidine ở nhóm đối tượng này. 10 người bệnh mạch vành kèm đái tháo đường týp 2 có triệu chứng đau thắt ngực không được kiểm soát bởi phối hợp ít nhất 2 thuốc chống đau thắt ngực qui ước và giải phẫu học động mạch vành không phù hợp cho việc tái tưới máu được lần lượt cho dùng trimetazidine 6 tuần rồi placebo 6 tuần . Nhóm nghiên cứu nhận thấy trong thời gian dùng trimetazidine phân độ chức năng theo CCS (Canadian Cardiovascular Society) của bệnh nhân giảm rõ rệt và số cơn đau thắt ngực cũng như số lần dùng nitrate để cắt cơn đau mỗi tuần của bệnh nhân giảm có ý nghĩa. Sau 6 tuần dùng trimetazidine thời gian đến khi ST chênh xuống 1 mm trên điện tim gắng sức tăng có ý nghĩa so với sau 6 tuần dùng placebo.
Năm 2011 Danchin và Marzilli thực hiện một phân tích gộp số liệu của 218 thử nghiệm lâm sàng trên một số lượng bệnh nhân khổng lồ là 19.028 người nhằm đánh giá hiệu quả chống đau thắt ngực/thiếu máu cục bộ tim của trimetazidine ở bệnh nhân đau thắt ngực ổn định. Kết quả phân tích gộp này cho thấy trimetazidine có hiệu quả chống thiếu máu cục bộ tim (biểu hiện qua các thông số của nghiệm pháp gắng sức: tổng thời gian gắng sức, thời gian đến khi xuất hiện ST chênh xuống 1 mm và thời gian đến khi xuất hiện đau thắt ngực) cũng như hiệu quả chống đau thắt ngực (biểu hiện qua số cơn đau thắt ngực và số lần dùng nitrate ngậm để cắt cơn mỗi tuần) tương đương các thuốc qui ước là nitrate tác dụng dài, chẹn canxi dihydropyridine và nicorandil.
Một câu hỏi được y giới đặt ra là liệu trimetazidine có cải thiện tiên lượng của bệnh nhân hay không. Bảng 2 tổng hợp kết quả của một số nghiên cứu đoàn hệ và phân tích gộp đánh giá ảnh hưởng của trimetazidine trên tử vong và các biến cố lâm sàng quan trọng. Các dữ liệu này gợi ý trimetazidine có ảnh hưởng thuận lợi trên tiên lượng của người bệnh tim thiếu máu cục bộ và người bệnh suy tim.
Bảng 2: Các nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của trimetazidine trên tiên lượng.
Ghi chú:NMCT = nhồi máu cơ tim; RR = nguy cơ tương đối; OR = tỉ số chênh.
Tại hội nghị khoa học thường niên 2014 của Hội Tim mạch Châu Âu tổ chức tại Barcelona, GS Nicolas Danchin, nguyên chủ tịch Hội Tim mạch Pháp, đã công bố việc chuẩn bị một nghiên cứu lớn mang tên ATPCI (The efficAcy and safety of Trimetazidine in Patients with angina pectoris having been treated by percutaneous Coronary Intervention) có mục tiêu là đánh giá hiệu quả cải thiện tiên lượng dài hạn của trimetazidine ở những bệnh nhân đã được can thiệp mạch vành qua da nhằm điều trị ít nhất một chỗ hẹp của động mạch vành nguyên gốc hoặc cầu nối động mạch vành. ATPCI là một thử nghiệm lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên, mù đôi, dự kiến sẽ tuyển 5.800 bệnh nhân từ 432 trung tâm ở 27 quốc gia. Bệnh nhân sẽ được phân vào một trong 2 nhóm: Trimetazidine MR 35 mg 1 viên x 2/ngày hoặc placebo (được thêm vào trên nền điều trị chuẩn). Tiêu chí đánh giá chính là phối hợp các biến cố chết do nguyên nhân tim, nhập viện vì một biến cố tim, tái xuất hiện hoặc tồn tại triệu chứng đau thắt ngực dẫn đến phải thêm/chuyển đổi/tăng liều một trong số các thuốc chống đau thắt ngực và tái xuất hiện hoặc tồn tại triệu chứng đau thắt ngực dẫn đến phải chụp mạch vành. ATPCI dự kiến sẽ chấm dứt tháng 11/2017. Nếu ATPCI cho kết quả dương tính, y giới sẽ được trang bị thêm một tiếp cận mới trong điều trị bệnh tim thiếu máu cục bộ, không những giúp kiểm soát triệu chứng mà còn cải thiện tiên lượng dài hạn của bệnh nhân.
Theo timmachhoc.vn
PK Đức Tín
Tin tức liên quan
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389