Ngất được định nghĩa khi TLOC do giảm tưới máu não, được đặc trưng bằng khởi phát nhanh, khoảng thời gian ngắn và phục hồi hoàn toàn tự phát.
Ngất được chia ra nhiều đặc tính lâm sàng với các rối loạn khác; do đó nó thể hiện ở nhiều chẩn đoán khác biệt. Nhóm rối loạn này được đặt là TLOC.
Hướng dẫn tóm tắt và đánh giá bằng chứng hữu ích với mục đích hỗ trợ các nhà chuyên môn y tế trong việc lựa chọn các chiến lược quản lý tốt nhất cho bệnh nhân riêng biệt với một điều kiện nhất định. Hướng dẫn và khuyến cáo nên tạo thuận lợi cho việc ra quyết định của các nhà chuyên môn y tế trong thực hành hàng ngày.
Điều trị chống huyết khối ở bệnh nhân bị bệnh động mạch ngoại biên (Peripheral Artery Disease-PAD) có thể được phân loại khái quát thành 3 nhóm dựa trên tình trạng bệnh nhân: không triệu chứng (asymptomatic), có triệu chứng (symptomatic), hoặc đã trải qua tái thông mạch ngoại biên (undergoing peripheral revascularization).
TÓM TẮT :
Cơ sở: Chụp động mạch vành (ĐMV) qua da có thuốc cản quang được xem là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán bệnh ĐMV, nhưng vì tính xâm lấn nên ít được sử dụng thường qui.
TÓM TẮT
Tổng quan: Các tổn thương xơ vữa mạch vành với độ hẹp từ 50% trở lên có thể gây ra các biến cố tim mạch nghiêm trọng như nhồi máu cơ, suy tim và tử vong.
ĐẠI CƯƠNG
Bệnh tim thiếu máu cục bộ ổn định [1] hay bệnh động mạch vành ổn định [2] là các thuật ngữ đề cập đến những bệnh nhân đau thắt ngực, có triệu chứng tương đương đau thắt ngực hoặc không có triệu chứng trải qua các đợt mất cân bằng cung-cầu cơ tim trong trường hợp không có nhồi máu cơ tim cấp hoặc đau thắt ngực không ổn định.
Thông khí cơ học cấp có thể cần thiết trong vài tình huống như nhồi máu thất (P), thuyên tắc phổi cấp, sau khi dùng thiết bị hỗ trợ thất (T) hoặc suy mảnh ghép sau ghép tim (bảng 4). Điều trị quan trọng nhất để quyết định sự thành công cho điều trị là chỉnh sửa dụng cụ cấy ghép nhằm tránh tổn thương cơ quan đích không hồi phục tiềm tàng cũng như có biểu hiện trên lâm sàng.
Đánh giá huyết động bằng phương pháp xâm nhập được khuyến cáo cho trường hợp suy thất (P) không rõ chẩn đoán hoặc không đáp ứng điều trị. Phương pháp này cung cấp thông tin có giá trị, chính xác và liên tục về áp lực nhĩ (T), nhĩ (P), cung lượng tim và kháng lực mao mạch phổi.
Dãn thất (P) là để thích ứng với tình trạng quá tải dịch. Trong trường hợp quá tải dịch cấp tính, thất (P) sẽ đáp ứng bằng cách tăng thể tích cuối tâm trương và tăng co bóp, nhưng suy thất (P) có thể xảy ra nhanh chóng nếu các cơ chế này không đáp ứng đủ áp lực để duy trì cung lượng tim (vd: huyết khối gây thuyên tắc trong trường hợp thuyên tắc phổi cấp).
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy thất (P) cấp có thể được định nghĩa là hội chứng với sung huyết hệ thống tiến triển nhanh chóng do suy đổ đầy và/hoặc giảm cung lượng thất (P). Suy thất (P) cấp thường kết hợp với tăng hậu tải hoặc tiền tải thất (P) và dẫn đến hậu quả dãn buồng thất (P) và hở van ba lá (hình 1).
Phương trình mới để ước tínhnguy cơ cho các biến cố tim mạch trong tương lai dường như cho kết quả chính xác hơn so với phương trình hiện tại được đề nghị - và điều này có ý nghĩa quan trọng cho việc lựa chọn bệnh nhân đủ điều kiện dùngstatin, aspirin và điều trịthuốc hạ áp.
Nếu cơn đau thắt ngực bắt đầu trong vài giờ qua, có thể không có các biểu hiện đặc trưng của hội chứng Wellen trên ECG lúc nhập viện. Thời gian đau ngực càng dài, cơ hội có các biểu hiện đặc trưng trên ECG lúc nhập viện của hội chứng Wellen càng cao.
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389