Tóm tắt
ECG lúc nghỉ một thành phần cơ bản của đánh giá khởi đầu của những người bị rối loạn nhịp chậm hoặc rối loạn dẫn truyền đã biết hoặc nghi ngờ. ECG được định thời gian thích hợp trong giai đoạn có triệu chứng có thể cung cấp chẩn đoán xác định.
Cơ sở
Hiệu quả và độ an toàn nói chung của thuốc kháng đông trực tiếp đường uống (DOACs) liệu có phù hợp ở bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim (AF) và có trọng lượng cơ thể cực thấp (<50 kg) chưa được biết rõ.
Cơ sở
Trắc nghiệm không xâm lấn tối ưu (Noninvasive test-NIT) trên bệnh nhân bị đái tháo đường và có các triệu chứng ổn định của bệnh động mạch vành (coronary artery disease-CAD) vẫn chưa được biết.
Một thử nghiệm “sham-controlled” cho thấy glyceryl trinitrate (GTN) dán ngoàida không cải thiện kết quả chung khi được dùng trong xe cứu thương ở giai đoạn đột quỵ tối cấp.
Suy tim là hội chứng thường gặp trên lâm sàng với tỷ lệ tử vong sau 5 năm chẩn đoán là >50%. Trong đó, nhóm bệnh nhân suy tim phân suất tống máu giảm nhập viện nhiều lần có tiên lượng kém. Mặc dù nhiều nghiên cứu lớn đã chứng minh vai trò của điều trị nội khoa trong cải thiện tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân suy tim, trên thực tế tỷ lệ điều trị theo khuyến cáo của bệnh nhân suy tim vẫn còn thấp.
CA 2:
Bệnh nhân nữ, 24 tuổi, tiền căn khỏe mạnh. Trong vòng 2 tháng nay, bệnh nhân thấy khó thở, khi gắng sức, khó thở tăng dần, không kèm đau ngực, không ngất, không phù. 1 tuần trước nhập viện, bệnh nhân khó thở nhiều, đi lại khoảng 50m là mệt, ảnh hưởng tới hoạt động sinh hoạt thường ngày, có lúc khó thở về đêm
Bệnh nhân nam, 67 tuổi, không có tiền sử bệnh lý gì. Khoảng 1 tháng nay, bệnh nhân thường lên cơn khó thở tăng dần, có lúc khó thở về đêm, khó thở phải ngồi, không kèm đau ngực, không hồi hộp, không ngất.
Cộng hưởng từ tim trong chẩn đoán bệnh
Trong hơn một thập kỷ qua, đã có nhiều bước tiến trong kỹ thuật MRI như: cuộn thu và phát sóng, tốc độ hình ảnh nhanh hơn, và độ tương phản tuyệt vời giữa máu và cơ tim với chuỗi xung tạo ảnh nhanh (SSFP) làm MRI trở thành công cụ hữu hiệu trong chẩn đoán bệnh lý tim mạch.
1. Đặt vấn đề
Bệnh cơ tim thất phải gây loạn nhịp (ARVC) hay còn gọi là loạn sản thất phải gây loạn nhịp (ARVD) là một trong những bệnh cơ tim nguyên phát hiếm gặp, với biểu hiện lâm sàng đặc trưng là rối loạn nhịp tim nguy hiểm đe dọa tính mạng, gây ra do sự thay thế tế bào cơ tim bằng mô xơ – mỡ
Xơ vữa động mạch là một bệnh mạn tính và tiến triển, được đặc trưng bởi sự hình thành và phát triển mảng xơ vữa bên trong thành các động mạch lớn. Kể từ đầu thập niên 1990 đã có nhiều nghiên cứu cho thấy các thuốc nhóm statin có thể làm chậm sự tiến triển của xơ vữa động mạch trong các động mạch vành (ĐMV)
MILAN, Ý — Một phân tích hồi cứu lớn ở Pháp đã cung cấp tin tốt lành cho những người yêu thích caffeine: các nhà nghiên cứu cho biết uống trà hoặc café có liên quan đến giảm nhẹ nhưng có ý nghĩa thống kê huyết áp tâm thu và tâm trương. Ngoài ra, uống trà và café cũng làm giảm có ý nghĩa áp lực mạch và tần số tim, trong đó trà làm giảm nhịp tim nhiều hơn.
Bướu ở tim được mô tả đầu tiên vào thế kỷ 18 bởi Boneti. Tuy nhiên , nhiều người tin rằng sự mô tả của Albers vào năm 1835 mới là báo cáo xác thực đầu tiên. Ca phẫu thuật cắt bỏ khối u ở tim thành công đầu tiên vào năm 1936. Chụp động mạch được sử dụng đầu tiên để chẩn đoán các khối u ở tim vào năm 1952.
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389