I. Đặt vấn đề:
Rung nhĩ (atrial fibrillation–AF) là một trong những dạng loạn nhịp tim thường gặp. Tỉ lệ mắc rung nhĩ (RN)tăng theo tuổi. Trong khi tỉ lệ hiện mắc xấp xỉ 1% tổng dân số Mỹ, riêng nhóm người trên 75 tuổi tỉ lệ này tăng lên đáng kể 9%.
ABSTRACT: An uncommon pattern of constrictive pericarditis
We reported a rare case who had chronic effusive-constrictive pericarditis (ECP) with severe congestive heart failure. There was a thick capsule that bound to the patient’s heart like a hard rubber shell (visceral layer) and a medium quantity of pericardiac effusion. The patient’s parietal pericardium was nearly normal, with no calcification, and there was no adhesion between two layers like in other cases.
1. ĐẠI CƯƠNG
Từ khi xuất hiện vào thập niên 1930 đến nay, heparin đã được sử dụng phổ biến trong thực hành lâm sàng với nhiều chỉ định từ phòng ngừa huyết khối, lọc máu đến điều trị các bệnh do thuyên tắc huyết khối
Bệnh nhân thứ hai:
Nguyễn Thị Thanh T (NTTT), sinh năm 1990. Tiền sử bản thân và gia đình không ghi nhận có gì đặc biệt. Được cấp cứu vào bệnh viện huyện Nhà Bè thành phố Hồ Chí Minh lúc 4h30 phút trong tính trạng bất tỉnh, mạch và huyết áp không đo được. Trên monitor có rung thất, đã được sốc điện 200 J thành công. Được đặt nội khí quản bóp bóp, ghi lại điện tim và chuyển bệnh viện Nhân Dân 115 lúc 12h30 phút cùng ngày 11 tháng 3 năm 2015 trong tình trạng hôn mê.
Mở đầu
Đầu năm 2014 chúng tôi đã đăng bài trên tạp chí về “Tái cực sớm”. Đến nay một số quan niệm về tái cực sớm đã được mở rộng hơn, một số vấn đề về tính di truyền… đã có những phát hiện hé mở.
Mẫu ER
Tỷ lệ tương đối cao của mẫu ER trong dân số chung (5-13%) so với tỷ lệ VF tự phát (khoảng 10 trường hợp trên 100.000 dân), mẫu ER hầu như luôn luôn là những nhận định lành tính ngẫu nhiên của ECG. Không có dấu hiệu cụ thể hoặc các triệu chứng được quy cho mẫu ER, được xác định bằng cách sử dụng một ECG tiêu chuẩn. Nếu không có ngất hoặc đột tử do tim, thì không có test nào đòi hỏi cho người có mẫu ER.
Thuật ngữ tái cực sớm (early repolarization: ER), cũng được hiểu như “sóng J” hoặc “điểm J chênh lên”, từ lâu đã được sử dụng để mô tả một biến thể QRS -T trên điện tâm đồ (ECG).Hầu hết các tài liệu xác định ER như có mặt trên điện
V.1. Đánh giá nguy cơchảy máu lại khi dùng kháng đông:
Nguy cơ này có thể dự đoán dựa trên loại XHN, nguy cơ của bệnh nhân cũng như hình ảnh đặc biệt của MRI (phần trên).Ở BN XHN thùy hay bệnh MM não tích tụ amyloid, nguy cơ XHN liên quan kháng đông cao hơn biến cố huyết khối thuyên tắc, vì vậy nên thận trọng khi dùng lại kháng đông ở nhóm bệnh nhân này (1,3).
II. Nguy cơ huyết khối nếu không dùng kháng đông:
Chỉ định dùng kháng đông trong lâm sàng gồm mang van nhân tạo (đặc biệt cơ học), rung nhĩ, huyết khối tĩnh mạch và thuyên tắc phổi, huyết khối trong buồng tim.
Nguy cơ biến chứng thuyên tắc huyết khối khi không dùng kháng đông khác nhau tùy theo tình trạng bệnh lý riêng biệt(Bảng 2).
I. Mở đầu:
Tỉ lệ xuất huyết não (XHN/ICH) hiệu chỉnh theo tuổi thay đổi khác nhau giữa 14,5 và 159,8/100.000 người/năm. Trong một tổng quan các nghiên cứu trên quần thể ở 21 quốc gia, tỉ lệ XHN là 24,6/100.000 người/năm và không có xu hướng giảm theo thời gian từ 1980-2007.
MỞ ĐẦU
Bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch ít khi là hệ quả của một yếu tố nguy cơ duy nhất (như trường hợp tăng cholesterol có tính gia đình) mà thường là hệ quả của nhiều yếu tố nguy cơ cùng tác động.
Điện thoại bàn: (028) 3981 2678
Di động: 0903 839 878 - 0909 384 389